THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN

2

1

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là một quyển sách khuyến thiện tốt nhất trong kho tàng kinh điển của Đạo gia, được Ngài Đại Sư Ấn Quang hết sức tán thán. Đại Sư Ấn Quang một đời cung kính ấn tống Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, ước khoảng có hơn ba triệu bản. Hơn nữa, Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Lão Pháp sư Tịnh Không cũng đều khích lệ người đời "khuyến đọc, khuyến hành, khuyến in, khuyến giảng".

Quyển sách này cùng với Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh là ba căn bản của Nho - Thích - Đạo, bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cội rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời.

ĐẠI SƯ ẤN QUANG KHUYÊN THỌ TRÌ THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN TRỰC GIẢNG
(印光法师太上感應篇直講序)

Tính người vốn thiện, nhưng do đối cảnh gặp duyên, không gắng lòng kiểm soát, dần dần khởi niệm chấp trước, sinh tâm yêu ghét, khởi các loại tình kiến, bản tính bị mai một đều vì những thứ như thế cả. Thế nên, thánh nhân thời xưa rủ lòng thương ban lời dạy dỗ, kỳ vọng người đời theo đó mà làm, nhằm hồi phục cái tâm vốn thiện. Lời dạy tuy có nhiều, nhưng đều không ngoài việc “cách vật trí tri, minh minh đức, chỉ ư chí thiện”.

Thế nào gọi là “cách vật”? “Cách” nghĩa là đánh một trận kịch liệt, ví như một người đương đầu với vạn người vậy. “Vật” là chỉ những phiền não vọng tưởng, theo thế tục gọi là dục vọng của con người. Người muốn chiến đấu với phiền não vọng tưởng tất phải có ý chí cương quyết, không sợ hãi, thì mới mong có hiệu quả thực sự. Còn như để tâm xoay chuyển theo vật dục, thì sao có thể gọi là “cách vật” được? Cái gọi là “trí” có nghĩa là mở rộng [tâm lượng] ra đến cùng cực. Còn “tri” chính là cái lương tri biết yêu thương cha mẹ, kính trọng bậc trưởng bối mà con người vốn sẵn có, chứ không phải do dạy, không phải do học mà có. Thông thường con người trong một ngày không thường xuyên kiểm soát phản tỉnh bản thân, để tâm xoay chuyển theo vật dục, đến nỗi đánh mất đi cái lương tri biết yêu thương cha mẹ và kính trọng bậc trưởng bối. Há còn mong mở rộng cái lương tri ấy đến khắp thảy vạn sự vạn vật, hàm dưỡng tự tâm của chính mình ư! Con đường mà Thánh nhân muốn người đời đi để đạt được cái đức sáng, đạt đến chỗ chí thiện, công phu căn bản nhất là phải bắt đầu từ “cách vật trí tri” mà làm. Không có gì diệu dụng hơn công phu này. Nhưng nếu muốn người thường theo đây mà tu trì, thì buộc phải có quy phạm chuẩn mực, mới hòng đạt được lợi ích. Tứ Thư, Ngũ Kinh chính là quy phạm chuẩn mực. Thế nhưng lời dạy trong những sách ấy mênh mông, tản mác, không có điểm hội tụ, khó mà có thể lĩnh hội được pháp. Những người không đọc sách nhiều sẽ càng vì lý do này mà không làm theo Kinh điển.

Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên hàm nhiếp đầy đủ những lý luận về việc đón kiết, tránh hung, phước thiện, cho đến những đạo lý về mối họa dâm, lời kinh vang vọng đến thượng thiên, chấn động đại địa, hễ đọc đến tâm liền xúc động. Cái gì gọi là thiện? Cái gì gọi là ác? Người làm việc thiện sẽ được thiện báo thế nào? Kẻ làm điều ác sẽ bị ác báo ra sao? Hiểu rõ được căn nguyên rồi, nhìn người sẽ vô cùng thấu suốt. Còn có kẻ ngu không chịu làm thiện, mặc tình làm điều xấu ác, lại dùng cái tâm tự tư tự lợi xem đó là điều hiển nhiên. Ngược lại, nay ta đã biết, những kẻ tự tư tự lợi sẽ bị tổn hại lợi ích rất lớn, rước lấy đại tai ương, há còn dám không khuyến khích nhau làm điều lương thiện để mong thoát họa, gặp phước hay sao? Vì lẽ đó, đây là cuốn sách rất ích lợi cho người đời. Các vị đại Nho thời xưa đa phần đều dựa vào cuốn sách này mà tu hành.

Vào thời nhà Thanh, ở đất Trường Châu, có ông Trạng nguyên Bành Ngưng Chỉ, từ nhỏ đã phụng hành theo sách này, cho đến khi ông làm quan đến chức Thượng Thư rồi mà mỗi ngày cũng đều thọ trì đọc tụng. Ông còn biên ra để tặng cho người khác, lấy tên là “Bộ sách mà Tể Tướng và Trạng Nguyên đều phải đọc”. Ông còn chú thích rằng: “Chẳng có nghĩa là đọc sách này có thể làm Trạng Nguyên, Tể Tướng, nhưng làm Trạng Nguyên, Tể Tướng nhất quyết không thể không đọc sách này”. Tùy theo cách nhìn của người nhân, kẻ trí, thuận theo căn tính của mỗi người mà phát huy giá trị của sách đến mức thấu triệt. Luận theo lẽ cùng cực của sách, thì sẽ được thành Tiên. Nhưng nếu như dùng tâm đại Bồ-đề mà hành trì thì cũng có thể siêu phàm nhập Thánh, liễu thoát sinh tử, đoạn Tam Hoặc, chứng Pháp Thân, phước huệ viên mãn cho đến thành Phật đạo, huống hồ là quả nhỏ thành thần tiên.

Sách này được chú giải rất nhiều, nhưng chỉ có bản Tiên Chú của Nguyên Hòa Huệ Đống đời Thanh được xem là vô cùng tinh thâm, không phải là bậc hiền sĩ học cao hiểu rộng thì không thể đọc được. Ngoài ra còn có cuốn Vựng Biên, quả thật đây là cuốn sách dành cho người nho nhã lẫn kẻ bình dân, nhưng đối với phụ nữ và trẻ em thì văn từ e khó có thể lĩnh hội. Duy có sách Trực Giảng này có thể đem lại lợi ích cho hết thảy. Lời văn của sách Trực Giảng này tuy đơn sơ, nhưng cách dùng từ ưu mỹ, đơn sơ nhưng không thô kệch, dễ cảm động lòng người. Cư sĩ Hương Đào đã xuất tiền in ấn, quảng bá, cùng với sự trợ giúp của một vài vị cùng chung chí hướng, nguyện cuốn sách này được phổ biến ra khắp cõi hoàn vũ. Nếu có được vài người tu Thập Thiện, trong nhà vẹn tròn câu hiếu đễ, biết việc họa phúc là do con người tự rước lấy, việc thiện ác đều có báo ứng cả, thì có ai chịu làm ác để rước lấy họa đâu? Nếu nếp sống xã hội đều theo một quy tắc là làm thiện để được thiện báo, thì lễ nhượng sẽ hưng khởi, nhân dân an lạc, thiên hạ thái bình, vĩnh viễn sẽ không còn nạn can qua (chiến tranh). Nguyện những người có tài lực và trí lực, hoặc in ấn số lượng nhiều để lưu thông, hoặc thuyết pháp diễn giảng, khiến cho những người vẫn chưa mất đi lương tri càng cố gắng giữ lấy cái tâm thuần chân; còn đối với kẻ đã mất đi lương tri rồi sẽ mau chóng khôi phục lại cái tâm sẵn có ấy. Công đức ấy kể sao cho xiết!

Năm Mậu Thìn 1928.

KHAI KINH

Dịch nghĩa:
Thiên Cảm Ứng này là lời dạy quý báu của Thái Thượng Lão Quân. Mỗi ngày đọc tụng một lần thì dứt tuyệt mọi tội lỗi. Thọ trì (hay trì tụng) một tháng thì phúc lộc càng bền. Tụng một năm thì thất tổ siêu thăng cõi trời. Trì tụng không bê trễ thì lâu dài có thể thành tựu Thánh đạo.
Thái Thượng dạy rằng
Thiên Cảm Ứng này
Ngày tụng một biến
Diệt tội tiêu khiên

Trì tụng một tháng
Phúc lộc tràn đầy
Hành trì một năm
Thọ mạng dài lâu

Tin làm bảy năm
Thất tổ siêu thăng
Hành trì không mỏi
Dễ thành thánh đạo.
太上寶訓
感應之篇
日誦一遍
滅罪消愆

受持一月
福祿彌堅
行之一年
壽命綿延

信奉七年
七祖昇天
久行不倦
可成聖道

CHƯƠNG 1: MINH NGHĨA

Thái Thượng Ngài đã dạy
Họa phúc vốn không cửa
Lòng người chiêu cảm thôi.
Quả báo thiện hay ác
Như bóng theo sát hình
Hình ngay thì bóng thẳng.

太 上 曰: 禍 福 無 門 惟 人 自 召. 善 惡 之 報 如 影 隨 形
Thái Thượng viết: Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.

CHƯƠNG 2: GIÁM SÁT

Trời đất có vị thần
Giám sát về tội lỗi
Tùy tội nặng hay nhẹ
Định thọ mạng ngắn dài.

是 以, 天 地 有 司 過 之 神, 依 人 所 輕 重 以 奪人 算.
Thị dĩ, thiên địa hữu Tư Quá chi Thần, y nhân sở khinh trọng, dĩ đoạt nhân toán.

Thọ mạng bị tổn giảm
Ắt gặp cảnh nghèo cùng
Chiêu cảm nhiều hoạn nạn
Sống không thể ung dung.
Người người đều oán ghét
Khó tránh khỏi hình tai
Điều lành liền xa lánh
Sao xấu mang họa đến
Mạng hết chết cận kề.

算 減 則 貧 耗, 多逢 憂 患, 人 皆 惡 之, 刑 禍 隨 之, 吉 慶 避 之, 惡 星 災 之, 算 盡 則 死.
Toán giảm tắc bần hao, đa phùng ưu hoạn, nhân giai ố chi, hình họa tùy chi, cát khánh tị chi, ác tinh tai chi, toán tận tắc tử.

Lại có thần Tam Thai
Giám sát về tuổi thọ
Cùng Bắc Đẩu thần quân
Chiếu xét tội lỗi người.

Ngự trên đầu thế nhân
Ghi chép hết thảy tội
Mạng theo đó mà giảm
Một kỷ mười hai năm
Một toán cả trăm ngày.

又 有 三 台 北 斗 神君, 在 人 頭 上, 錄 人 罪 惡, 奪 其 紀 算.
Hựu hữu Tam Thai Bắc Đẩu Thần Quân, tại nhân đầu thượng, lục nhân tội ác, đoạt kỳ kỷ toán.

Tam Thi thần trong thân
Ngày Canh Thân báo cáo
Tâu Ngọc Hoàng Thượng Đế
Tội lỗi của người đời.

又 有 三 尸 神 在 人身 中, 每 到 庚 申 日, 輒 上 詣 天 曹, 言 人 罪 過.
Hựu hữu Tam Thi Thần tại nhân thân trung, mỗi đáo Canh Thân nhật, triếp thướng nghệ Thiên Tào, ngôn nhân tội quá.

Đến cuối mỗi tháng qua
Táo Quân ngài cũng vậy
Tấu trình tại Thiên Tào
Bẩm báo việc trần gian.

月晦之日, 灶神亦然.
Nguyệt hối chi nhật, Táo Thần diệc nhiên.

Phàm những ai có tội
Nặng trừ mười hai năm
Nhẹ giảm một trăm ngày
Gieo nhân nào quả nấy.

凡人有過, 大則奪紀, 小則奪算.
Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt toán.

Hết thảy các tội lỗi
Lớn nhỏ hàng mấy trăm
Vì thế muốn sống lâu
Phải tránh xa tội lỗi.

其過大小有數百事. 欲求長生者, 先須避之.
Kỳ quá đại tiểu, hữu sổ bách sự. Dục cầu trường sinh giả, tiên tu tỵ chi.

CHƯƠNG 3: TÍCH THIỆN

Phàm sự việc ở đời
Hợp với lẽ thì tiến
Trái đạo phải tránh xa.
Đường tà không thể bước.
Dù phòng kín không người
Tà niệm quyết chẳng khởi.

是道則進, 非道則退. 不履邪徑. 不欺暗室.
Thị đạo tắc tiến, phi đạo tắc thoái. Bất lý tà kính. Bất khi ám thất.

Phải tích công bồi đức
Thương yêu cả muôn loài
Trung thành với tổ quốc
Hiếu thảo với mẹ cha
Anh thương và em kính
Thảy bắt đầu nơi ta
Mình phải làm được trước
Mới mong cảm hóa người.

積德累功. 慈心於物. 忠孝友悌. 正己化人.
Tích đức lũy công. Từ tâm ư vật. Trung, hiếu, hữu, đễ. Chính kỷ hóa nhân.

Cô nhi và quả phụ
Nên cứu giúp xót thương.
Trên kính bậc lão thành
Dưới bảo ban trẻ nhỏ.
Thấy côn trùng cây cỏ
Không tổn hại sát thương.

矜孤恤寡.敬老懷幼. 昆蟲草木, 猶不可傷.
Căng cô tuất quả. Kính lão hoài ấu. Côn trùng thảo mộc, do bất khả thương.

Thấy người làm điều ác
Tâm khởi niệm xót thương
Thấy người làm việc lành
Mình sinh tâm hoan hỷ.
Cứu người khi cấp bách
Giúp người lúc khó khăn.

宜憫人之凶. 樂人之善. 濟人之急. 救人之危.
Nghi mẫn nhân chi hung. Lạc nhân chi thiện. Tế nhân chi cấp. Cứu nhân chi nguy.

Nhìn thấy người thành công
Vui như mình làm được.
Khi thấy người thất bại
Mình cũng buồn khác chi.

見人之得如己之得. 見人之失如己之失.
Kiến nhân chi đắc như kỷ chi đắc. Kiến nhân chi thất như kỷ chi thất.

Không nên bàn khuyết điểm
Chỗ kém cỏi của người.
Khoe khoang tài năng mình
Đó là việc nên tránh.

不彰人短, 不衒己長.
Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường.

Ngăn chặn người làm ác
Tuyên dương việc thiện lành.
Phần hơn dành cho người
Ít riêng mình giữ lấy.

遏惡揚善. 推多取少.
Át ác dương thiện. Thôi đa thủ thiểu.

Chịu nhục vẫn không oán
Được người trọng thì lo.
Thi ân không cầu báo
Cho người chớ hối tiếc.

受辱不怨. 受寵若驚. 施恩不求報. 與人不追悔.
Thụ nhục bất oán. Thụ sủng nhược kinh. Thi ân bất cầu báo. Dữ nhân bất truy hối.

CHƯƠNG 4: THIỆN BÁO

Người tích đức hành thiện
Mọi người đều kính nể
Trời phù hộ cho họ
Phúc lộc thảy đừng lo
Không cầu mà tự đến.
Tà thần và ác quỷ
Tất sẽ tự tránh xa
Thần linh luôn bảo hộ
Vạn sự ắt vẹn toàn
Cho đến thành Thần Tiên
Mình có thể làm được.

所為善人, 人皆敬之, 天道佑之, 福綠隨之, 眾邪遠之, 神靈衛之, 所作必成, 神仙可冀.
Sở vị thiện nhân, nhân giai kính chi, thiên đạo hựu chi, phúc lộc tùy chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi, sở tác tất thành, thần tiên khả ký.

Nếu muốn làm thiên tiên
Nghìn ba trăm điều thiện.
Nếu muốn làm địa tiên
Cần ba trăm việc lành.

欲求天仙者, 當立一千三百善.
欲求地仙者, 當立三百善.
Dục cầu thiên tiên giả, đươnglập nhất thiên tam bách thiện.
Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện.

CHƯƠNG 5
CHƯ ÁC (PHẦN THƯỢNG)

Ác là việc phi nghĩa
Trái đạo, trái lương tâm
Dùng thủ đoạn độc ác
Cho đó là tài năng.
Nhẫn tâm và tàn bạo
Mưu toan hại người hiền.

苟或非義而動, 背理而形, 以惡為能, 忍作殘害, 陰賊良善
Cẩu hoặc phi nghĩa nhi động, bối lý nhi hành, dĩ ác vi năng, nhẫn tác tàn hại, âm tặc lương thiện.

Thầm khinh khi cha mẹ
Bất kính với thầy cô
Bất trung với chức phận
Gạt gẫm người ngây ngô
Chê bai bạn đồng học.

暗辱君亲, 慢其先生, 叛其所事, 誑諸無識, 謗諸同學
Ám vũ quân thân, mạn kỳ tiên sinh, bạn kỳ sở sự, cuống chư vô thức, báng chư đồng học.

Xảo trá và hư ngụy
Công kích cả họ hàng
Cang cường, vô nhân đạo
Hiểm ác đến bạo tàn.
Bất chấp lẽ đúng sai
Hành xử không thích đáng.

虛誣詐偽攻訐宗親, 剛強不仁, 狠戾自用, 是非不當, 向背乖宜.
Hư vu trá ngụy, công yết tông thân, cương cường bất nhân, ngận lệ tự dụng, thị phi bất đang, hướng bối quai nghi.

Ngược đãi và cướp công
Của những kẻ dưới quyền
Nịnh hót người bề trên
Đón ý để trục lợi.

虐下取功, 諂上希旨
Ngược hạ thủ công, siểm thượng hy chỉ.

Thọ ân không biết cảm
Gặp oán mãi ôm lòng.

受恩不感, 念怨不休.
Thụ ân bất cảm, niệm oán bất hưu.

Không vì nước vì dân
Mà sinh tâm khinh miệt
Dựng chuyện làm nhiễu loạn
Nền chính trị nước nhà.

輕蔑天民, 擾亂國政.
Khinh miệt thiên dân, nhiễu loạn quốc chính.

Khen thưởng kẻ phi nghĩa
Trừng phạt người vô can
Giết người hòng đoạt của
Sát hại kẻ đầu hàng
Mưu hại người mất chức
Chiếm đoạt địa vị người.

賞及非義, 刑及無辜, 殺人取財, 傾人取位, 誅降戮服.
Thưởng cập phi nghĩa, hình cập vô cô, sát nhân thủ tài, khuynh nhân thủ vị, tru hàng lục phục.

Hãm hại người chính trực
Bài xích người hiền lương
Lăng nhục kẻ cô nhi
Bức hại người góa bụa
Bất chấp các luật lệ
Nhận hối lộ của người
Điều thẳng cho là cong
Cong thì cho là thẳng
Lỗi nhẹ thì xét nặng
Khiến người chịu hàm oan.

貶正排賢, 陵孤逼寡, 棄法受賂, 以直為曲, 以曲為直, 入輕為重
Biếm chính bài hiền, lăng cô bức quả, khí pháp thọ lộ, dĩ trực vi khúc, dĩ khúc vi trực, nhập khinh vi trọng.

Thấy kẻ sắp thụ hình
Không xót còn sân nộ
Biết lỗi vẫn không sửa
Thấy điều thiện chẳng làm
Mình đã mắc tội rồi
Còn liên lụy người khác.

見殺加怒, 知過不改, 知善不為, 自罪引他
Kiến sát gia nộ, tri quá bất cải, tri thiện bất vi, tự tội dẫn tha.

Tài năng và pháp hay
Đem lợi ích cho đời
Nếu mình đã học rồi
Nên mau đi truyền bá
Cản trở người truyền bá
Tâm lượng ấy hẹp hòi.

壅塞方術
Ung tắc phương thuật.

Phỉ báng bậc Thánh Hiền
Hãm hại người đạo đức.

訕謗聖賢, 侵陵道德
Sán báng thánh hiền, xâm lăng đạo đức.

Dùng tên nhọn săn đuổi
Chim, thú thảy kinh hoàng.
Phá nát cả tổ hang
Côn trùng trong gò đất.
Rung cây chim hoảng sợ
Không còn chỗ tựa nương.
Nhẫn tâm lấp ổ hang
Tổ chim bị lật úp
Phá thai và hại trứng
Còn tội ác nào hơn.

射飛逐走, 發蟄驚棲, 填穴覆巢, 傷胎破卵
Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê, điền huyệt phúc sào, thương thai phá noãn.

Mong nhìn thấy khuyết điểm
Và thất bại của người
Nhìn thấy việc sắp thành
Tìm mọi cách hủy hoại.

願人有失, 毀人成功
Nguyện nhân hữu thất, hủy nhân thành công.

Mua bán trao đổi hàng
Đem xấu tráo cái tốt.

以惡易好
Dĩ ác dịch hảo

Vì ân oán riêng tư
Phế bỏ điều công đạo.

以私廢公
Dĩ tư phế công.

Tài năng của người khác
Trộm lấy làm của mình
Còn thiện hạnh của người
Tìm mọi cách dìm lấp.

竊人之能, 蔽人之善
Thiết nhân chi năng, tế nhân chi thiện.

Thấy người có điều xấu
Phô bày và rêu rao
Việc riêng tư của người
Bới móc rồi truyền rao.

形人之醜, 訐人之私
Hình nhân chi xú, kiết nhân chi tư.

Tài vật của người khác
Làm phung phí tiêu hao.

耗人貨財
Hao nhân hóa tài

Phá hoại tình cốt nhục
Làm người thân chia ly
Tương tàn hay bất hòa
Đó là điều cực ác.

離人骨肉
Ly nhân cốt nhục.

Đồ vật người yêu quý
Nghĩ mọi cách đoạt xâm
Chiếm làm của riêng mình
Nào khác gì cường đạo.

侵人所愛
Xâm nhân sở ái.

Thấy kẻ làm bất chính
Còn giúp sức một tay.
Gặp được thời vận may
Mặc tình làm mưa gió
Hủy nhục người để mong
Phần thắng cho riêng mình.

助人為非, 逞志作威, 辱人求勝
Trợ nhân vi phi, sính chí tác oai, nhục nhân cầu thắng.

Người nông phu cực khổ
Cây lúa mới trổ bông
Không biết tiếc công trồng
Còn sinh tâm phá hoại.

敗人苗稼
Bại nhân miêu giá.

Hôn nhân, duyên đã định
Vì tham sắc, tư thù
Chiếm đoạt hoặc chia ly
Trời không dung việc ấy.

破人婚姻
Phá nhân hôn nhân.

Kẻ tiểu nhân mới phất
Vội nghênh mặt với người
Việc làm thiếu lễ này
Là điềm làm tổn phước.

苟富而驕
Cẩu phú nhi kiêu.

Kẻ mắc lỗi phạm tội
May mắn được thoát thân
Không một chút ăn năn
Vẫn chứng nào tật nấy.

苟免無恥
Cẩu miễn vô sỉ.

Ân đức người bố thí
Mạo nhận làm của mình
Mình làm chuyện bất lương
Thì gán cho người khác.

認恩推過, 嫁禍賣惡
Nhận ân thôi quá, giá họa mại ác.

Năng lực vốn không có
Dùng tiền bạc để mua
Vô sỉ cầu hư danh
Còn mong người tán thưởng.

沽買虛譽
Cô mãi hư dự.

Lòng người vốn nham hiểm
Mặt tỏ vẻ thiện lương
Nụ cười nở trên môi
Dao sắc giấu trong lòng.

包貯險心
Bao trữ hiểm tâm.

Đối với người tài năng
Mình chủ tâm mai một
Cái dở của bản thân
Trăm phương nghìn cách giấu.

挫人所長, 護己所短
Tỏa nhân sở trường, hộ kỷ sở đoản.

Lợi dụng thế lực lớn
Ức hiếp đày đọa người
Dung túng kẻ ác nhân
Tổn hại người vô tội.

乘威迫脅, 縱暴殺傷
Thừa oai bách hiếp, túng bạo sát thương.

Áo quần dùng che thân
Công người may vất vả
Mặc rách thì nên vá
Chớ lãng phí xa hoa.

無故剪裁
Vô cố tiễn tài.

Loài vật có sinh mạng
Cũng trân quý như mình
Trời có đức hiếu sinh
Ta mặc tình nung nấu.

非禮烹宰
Phi lễ phanh tể. 

Thời xưa đấng thiên tử
Còn tự mình canh nông
Nay ngũ cốc gieo trồng
Ta nỡ nào lãng phí.

散棄五穀
Tán khí ngũ cốc.

Những công trình kiến trúc
Đừng lao dịch nhân dân
Xây cung điện nguy nga
Riêng mình vui hưởng lấy.

勞擾眾生
Lao nhiễu chúng sinh.

Giàu nghèo vốn sẵn mệnh
Của phi nghĩa giàu đâu
Tham tài mưu hại người
Di họa đến đời sau.

破人之家取其財寶
Phá nhân chi gia, thủ kỳ tài bảo.

Thủy tai cùng hỏa tai
Người dân ai cũng sợ
Hiểu được điều này rồi
Không phóng hỏa đốt nhà.
Đê điều xin chớ phá.

決水放火以害民居
Quyết thủy phóng hỏa, dĩ hại dân cư.

Sự nghiệp người gây dựng
Vốn đã sẵn quy mô
Gây rối loạn nhiễu nhương
Mong công người sụp đổ.

紊亂規模以敗人功
Vặn loạn qui mô dĩ bại nhân công.

Phá hỏng các công cụ
Khiến người không thể dùng
Tâm địa nhỏ nhen ấy
Trời đất ắt khó dung.

損人器物以窮人用
Tổn nhân khí vật dĩ cùng nhân dụng.

Nhìn thấy người vinh hiển
Mong cho bị lưu đày
Nhìn thấy người giàu sang
Cầu mong cho tàn mạt
Nào đâu hay phước báo
Do tu tích khi xưa
Không làm thiện đời này
Đời sau làm sao hưởng?

見他榮貴願他流貶, 見他富有願他破散
Kiến tha vinh quý nguyện tha lưu biếm, kiến tha phú hữu nguyện tha phá tán.

Nhìn thấy người nhan sắc
Tâm ắt khởi lòng tà
Cổ nhân đã dạy ta
Vạn ác dâm số một
Thế nên phải cẩn trọng.

Ngay ở chỗ không người
Khởi một niệm tà thôi
Quỷ thần đều biết rõ.
Phòng sắc như phòng cọp
Ấy đáng bậc trượng phu.

見他色美起心私之
Kiến tha sắc mỹ khởi tâm tư chi.

Lúc mình gặp khó khăn
Mượn tài vật của người
Đến lúc khấm khá rồi
Khởi tâm tham không trả.
Bởi không tin nhân quả
Mong người chóng chết đi
Nào biết có luân hồi
Làm trâu bò trả nợ.

負他貨財願他身死
Phụ tha hóa tài nguyện tha thân tử.

Bậc chí nhân quân tử
Tâm ít muốn không cầu
Vui với thú thanh tao
Không oán nên thường lạc.

Kẻ tiểu nhân bạc ác
Tâm đa dục đa cầu
Nếu không thỏa tham cầu
Trở mặt sinh lòng oán.

干求不遂便生咒恨
Can cầu bất toại tiện sinh chú hận.

Thế gian ai hoàn mỹ
Không mắc lỗi phạm sai
Thấy chỗ người kém khuyết
Chớ chỉ trích vội vàng

Trước hãy nên phản tỉnh
Mình từng phạm lỗi chưa
Dùng lòng tha thứ mình
Mà khoan dung người khác.

見他失便便說他過
Kiến tha thất tiện tiện thuyết tha quá.

Xem thấy người lùn xấu
Tướng mạo chẳng vẹn toàn
Khiếm khuyết hết ngũ quan
Phải sinh tâm thương xót.

Bằng chế giễu nhạo báng
Cười cũng chẳng được lâu
Đời này và đời sau
Gieo nhân gì quả đó.

見他體相不具而笑之
Kiến tha thể tướng bất cụ nhi tiếu chi.

Thấy người có tài năng
Không sinh tâm hoan hỷ
Ngược lại còn đố kỵ
Mưu kế đè ép người
Tài năng ấy chôn vùi
Không được ra thi thố.

見他才能可稱而抑之
Kiến tha tài năng khả xưng nhi ức chi.

CHƯƠNG 6
CHƯ ÁC (PHẦN HẠ)

Dùng bùa ngải tà thuật
Yểm chú hãm hại người
Tội nghiệt ấy tày trời
Đời sau đọa địa ngục.

埋蠱厭人
Mai cổ yếm nhân

Thực vật như động vật
Đều cũng có tánh linh
Ta phải biết yêu thương
Không mặc tình dẫm đạp.
Trăm năm cây cổ thụ
Hấp tinh hoa đất trời
Phun thuốc diệt cây rồi
Tâm từ bị tổn mất.

用藥殺樹
Dụng dược sát thụ.

Với lời thầy răn dạy
Không cung kính tiếp thu
Mà giận quá hóa thù
Đấy là phường bất tiếu.

恚怒師傅
Khuể nộ sư phó.

Bất hiếu với cha mẹ
Xung đột với người trên
Ngỗ nghịch chẳng nể tình
Người trời đều trừng phạt.

抵觸父兄
Để xúc phụ huynh.

Tâm ỷ mạnh hiếp yếu
Cưỡng đoạt tài vật người.
Bất chấp lý và tình
Chính là phường cướp bóc.

強取強求.
Cưỡng thủ cưỡng cầu.

Kẻ tham danh hám lợi
Chỉ muốn đoạt của người
Để có được giàu sang
Cướp người hòng đoạt của.

好侵好奪, 擄掠致富
Háo xâm háo đoạt, lỗ lược trí phú.

Dùng thủ đoạn xảo trá
Mong thăng tiến chức quan
Khi được tước vọng rồi
Thưởng phạt không công chính.

巧詐求遷, 賞罰不平
Xảo trá cầu thiên, thưởng phạt bất bình.

Phóng dật và hưởng lạc
Quá độ sẽ sinh bi
Lộc tận thì nhân vong
Phước chớ nên hưởng hết.

逸樂過節
Dật lạc quá tiết.

Đối người hầu, cấp dưới
Chớ ngược đãi bạo hành
Lời ân cần khuyên dạy
Họ không dễ phản mình.

荷虐其下
Hà ngược kỳ hạ.

Người gặp lúc sợ lo
Ta an ủi vỗ về
Chớ thừa cơ khủng bố
Nhân đức thảy còn đâu!

恐嚇於他
Khủng hách ư tha.

Gặp việc không như ý
Chớ oán trời trách người
Phước phận mỏng nơi mình
Do nhân xưa đã tạo.

怨天尤人
Oán thiên vưu nhân.

Tiết trời xấu hoặc tốt
Mưa thuận hay gió hòa
Ắt do ở tâm ta
Chớ oán mưa giận gió.

呵風罵雨
Ha phong mạ vũ.

Gây tạo chuyện thị phi
Để hai bên thưa kiện
Mình đứng giữa trục lợi
Trời cao ắt khó dung.

鬥合爭訟
Đấu hợp tranh tụng.

Mưu mô lập băng đảng
Mong nước loạn tranh quyền
Đâu hay xã tắc biến
Nhà mình cũng chẳng yên.

妄逐朋黨
Vọng trục bằng đảng.

Nghe lời của thê thiếp
Như mật ngọt rót tai
Lời cha mẹ dạy ta
Lại mặc tình làm trái
Phận làm con lỗi đạo
Sao tránh khỏi tai ương!

用妻妾語違父母訓
Dụng thê thiếp ngữ vi phụ mẫu huấn.

Bạn hữu thuở hàn vi
Giữ vẹn tình sau trước
Nghĩa tào khang chung thủy
Có trăng chớ quên đèn.

得新忘故
Đắc tân vong cố.

Quân tử và tiểu nhân
Hình dung tuy chẳng khác
Khác ở chỗ dụng tâm
Quang minh hay ám muội.
Người quân tử chính trực
Lời nói để lợi người
Miệng Phật mang tâm xà
Là tiểu nhân gian ác.

口是心非
Khẩu thị tâm phi.

Thân làm quan phụ mẫu
Bóc lột nhũng nhiễu dân
Dối gạt đến quân vương
Lưới trời e khó thoát.

貪冒於財, 欺罔其上
Tham mạo ư tài, khi võng kỳ thượng.

Miệng người dễ phạm lỗi
Ác khẩu bịa đặt lời
Lưỡi ác nghiệt hại người
Không xương như dao sắc.

造作惡語
Tạo tác ác ngữ.

Hủy báng và hại người
Lại cho mình chính trực.
Mạo phạm cả thần linh
Tự nhận mình ngay thẳng.

讒毀平人, 毀人稱直, 罵神稱正,
Sàm hủy bình nhân, hủy nhân xưng trực, mạ thần xưng chính.

Bỏ thuận đi theo nghịch
Trái đạo lý luân thường
Cốt nhục chẳng hề thương
Với người thì hậu hỹ.

棄順效逆, 背親向疏
Khí thuận hiệu nghịch, bối thân hướng sơ.

Tâm tính chuyện trái, sai
Thân làm chuyện tồi tệ
Còn cầu trời và thần
Chứng giám cho việc đó.
Đã ôm lòng bất chính
Đất trời nào chứng cho.

指天地以證鄙懷, 引神明而鑒猥事.
Chỉ thiên địa dĩ chứng bỉ hoài, dẫn thần minh nhi giám ổi sự.

Bố thí cho người rồi
Lòng lại sinh hối hận.
Mượn tài vật không trả
Đời sau đội sừng đền.

施與後悔, 假借不還
Thí dữ hậu hối, giả tá bất hoàn.

Người không biết an phận
Hướng ngoại vọng tâm cầu
Đâu hay vạn pháp kia
Thảy đều do tâm tạo.

分外營求, 力上施設
Phận ngoại doanh cầu, lực thượng thi thiết.

Kẻ dâm dục quá độ
Tinh khí thảy đều suy
Sinh con ra ngu đần
Còn tổn thương âm đức.

淫欲過度
Dâm dục quá độ.

Lòng dạ vốn nham hiểm
Ngoài mặt giả hiền từ
Khác nào loài hổ lang
Độc thua gì rắn rết.

心毒貌慈
Tâm độc mạo từ.

Thức ăn không tinh sạch
Gây mầm bệnh cho người
Nếu tặng hoặc bán đi
Hại người mình tổn đức.

穢食餧人
Uế thực ủy nhân.

Dùng bàng môn tà đạo
Yêu thuật mê hoặc người
Luật trời ắt khó dung
Chết đọa ba đường khổ.

左道惑眾
Tả đạo hoặc chúng.

Kẻ buôn gian bán thiếu
Làm hàng giả gạt người
Tạm chiếm tiện nghi thôi
Âm Ty định sẵn tội.

短尺狹度, 輕秤小升, 以偽雜真, 採取姦利
Đoản xích hiệp độ, khinh xứng tiểu thăng. Dĩ ngụy tạp chân, thải thủ gian lợi.

Ép bức người lương thiện
Làm kỹ nữ thanh lâu
Dùng kế hiểm mưu sâu
Lừa người dân khờ khạo.
Tội ấy trái thiên đạo
Chết nào thoát ba đường.

壓良為賤, 謾驀愚人
Áp lương vi tiện, mạn mạch ngu nhân.

Dục vốn là hố sâu
Kẻ tham không biết chán
Tội lớn bởi nhiều dục
Họa lớn do đa cầu.

貪婪無厭
Tham lam vô yếm.

Chứng minh mình vô tội
Cầu phần thắng cho mình
Đối trước đấng thần minh
Thề láo mình ngay thẳng.

咒詛求直
Chú trớ cầu trực.

Đức Phật chế năm giới
Rượu là giới sau cùng
Người ham mê rượu thịt
Khó tránh sát, đạo, dâm.

嗜酒悖亂
Thị tửu bội loạn.

Huynh đệ như tay chân
Gà cùng chung một mẹ
Môi hở thì răng lạnh
Sao nỡ giận, tranh nhau!

骨肉忿爭
Cốt nhục phẫn tranh.

Trai bất trung bất nghĩa
Gái chẳng kính thuận chồng
Gia đình không hòa khí
Gia đạo chẳng thể hưng!

男不忠良,女不柔順,不和其室,不敬其夫
Nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận, bất hòa kỳ thất, bất kính kỳ phu..

Quẻ Khiêm trong Kinh Dịch
Sáu hào đều cát tường
Người kiêu căng, đố kỵ
Không phải bậc hiền lương.

每好矜誇,常行妒忌
Mỗi háo căng khoa, thuờng hành đố kỵ.

Làm chồng thiếu đức hạnh
Phụ bạc nghĩa vợ chồng
Làm vợ lại vô nghì
Cha mẹ chồng chẳng kính.

無行於妻子,失禮於舅姑
Vô hạnh ư thê tử, thất lễ ư cữu cô.

Khâm liệm không như lễ
Cúng tế chẳng chí thành
Tổ tiên dù đã khuất
Anh linh vẫn thường quanh.

輕慢先靈
Khinh mạn tiên linh.

Lệnh của mẹ cha ban
Cùng lời thầy cô dạy
Là muốn ta nên người
Tránh không làm nghịch ý.

違逆上命
Vi nghịch thượng mệnh.

Đời người vốn ngắn tạm
Nên biết việc cần làm
Sống làm điều vô ích
Uổng một kiếp nhân gian.

作為無益
Tác vi vô ích.

Đã ôm lòng dối gạt
Đâu cần đợi thân làm
Vừa khởi tâm động niệm
Tội đã ghi rõ ràng.

懷挾外心
Hoài hiệp ngoại tâm.

Thường tự mình thề thốt
Nguyền mình và rủa người
Dù thọ mạng chưa hết.
Ác báo sắp đến rồi.

自咒咒他
Tự chú chú tha.

Nếu có lòng thiên lệch
Yêu ghét chẳng công bằng
Dễ tạo sai lầm lớn
Bất hòa với người thân. 

偏憎偏愛
Thiên tăng thiên ái.

Không bước qua giếng, bếp.
Giếng vốn có vị Thần
Bếp có ngài Táo Quân
Xin chớ có mạn khinh.

Với thức ăn cũng vậy
Không thể dẫm đạp lên
Thân hình người cũng thế
Chân không đặt lên trên.

越井越灶, 跳食跳人
Việt tỉnh việt táo, khiêu thực khiêu nhân.

Hổ lang tuy hung dữ
Chẳng ăn thịt con mình
Phá thai và giết trẻ
Cốt nhục chớ đoạn tình.

損子墮胎
Tổn tử đọa thai.

Gian trá và tà dâm
Là hành vi ám muội
Dù làm trong phòng tối
Mắt Thần vẫn sáng soi.

行多隱僻
Hành đa ẩn tích.

Cuối tháng và Ngũ Lạp
Thiên Thần kiểm lỗi lầm
Dương gian nên tránh việc
Ca múa động nhân tâm.

晦臘歌舞
Hối lạp ca vũ.

Than khóc và phẫn nộ
Vốn là việc không nên
Tránh đầu tháng đầu năm
Hoặc bình minh buổi sớm.

朔旦號怒
Sóc đán hào nộ.

Hướng Bắc có sao Đẩu
Nơi ngự của thần linh
Chớ hướng về phương này
Khạc nhổ, đại tiểu tiện.

對北涕唾及溺
Đối bắc thế thóa cập niệu.

Bếp nhà có TáoThần
Giám sát tội lỗi người
Không khóc, vịnh, xướng ca
Đốt hương trên bếp lửa
Củi bẩn không tinh khiết
Không được dùng nấu ăn.

對灶吟詠及哭, 又以灶火燒香, 穢柴作食
Đối táo ngâm vịnh cập khốc, hựu dĩ táo hỏa thiêu hương, uế sài tác thực.

Thần Dạ Du ban đêm
Đi tuần tra khảo sát
Ăn mặc phải kín đáo
Ngủ không để lõa lồ.

夜起裸露
Dạ khởi lõa lộ

Vào những ngày Bát Tiết
Trai giới, chuyên làm lành
Tránh không được hành hình
Và tạo thêm nghiệp sát.

八節行刑
Bát tiết hành hình.

Trong vũ trụ bao la
Đều có thần cai quản
Tỏ lòng thành cung kính
Tránh làm các việc sau:
Khạc nhổ hướng sao băng
Tay chỉ trỏ cầu vồng
Chỉ nhật, nguyệt, tinh tú
Chăm chú nhìn mặt trăng.

唾流星, 指紅霓, 輒指三光, 久視日月Thóa lưu tinh, chỉ hồng nghê, triếp chỉ tam quang, cửu thị nhật nguyệt.

Xuân về vạn vật sinh
Kiêng tránh việc đốt rừng
Săn bắn là tội ác
Hại muôn loài sinh linh.

春月燎獵
Xuân nguyệt liệu liệp.

Tâm có điều phẫn nộ
Phát tiết thóa mạ người
Hướng phương Bắc trút giận
Thần Bắc Đẩu trên trời.

對北惡罵
Đối bắc ác mạ.

Chớ vô duyên vô cớ
Giết hại rắn và rùa
Sinh mạng phải trân quý
Cẩn trọng chớ sát thương.

無故殺龜打蛇
Cô cố sát quy đả xà.

CHƯƠNG 7: ÁC BÁO

Những việc ác kể trên
Tùy tội nặng hay nhẹ
Tư Mệnh Thần định đoạt
Phán thọ mạng ngắn dài.

如是等罪, 司命隨其輕重, 奪其紀算.
Như thị đẳng tội, Tư Mệnh tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ kỷ toán.

Cái chết đã gần kề
Tội kia chưa trả hết
Thì sẽ di hại đến
Con cháu ở đời sau.

算盡則死. 死有餘責, 乃殃及子孫.
Toán tận tắc tử. Tử hữu dư trái, nãi ương cập tử tôn.

Dùng thế lực áp bức
Đoạt tài sản của người
Thì thân gia quyến thuộc
Cũng chịu chung ác báo
Cho đến chết mới thôi.

又諸橫取人財者, 乃計其妻子家口以當之, 漸至死喪
Hựu chư hoạnh thủ nhân tài giả, nãi kế kỳ thê tử gia khẩu dĩ đương chi, tiệm chí tử táng.

Nếu thọ mạng chưa hết
Sẽ gặp lũ, hỏa tai
Trộm cướp và bệnh tật
Tai tiếng và kiện thưa.
Xưa hại người nửa cân
Giờ phải đền tám lạng.

若不死喪則有水火盜賊, 遺忘器物, 疾病口舌諸事,以當妄取之直.
Nhược bất tử táng, tắc hữu thuỷ hỏa đạo tặc, di vong khí vật, tật bệnh, khẩu thiệt chư sự, dĩ đương vọng thủ chi trực.

Giết oan mạng người khác
Sẽ cảm họa binh đao
Nhân-quả vốn tơ hào
Không mảy may sai chạy.

又枉殺人者, 是易刀兵而相殺也
Hựu uổng sát nhân giả, thị dịch đao binh nhi tương sát dã.

Đoạt tiền tài phi nghĩa
Như ăn thịt độc vào
Uống rượu độc giải khát
Ác nghiệp tránh khỏi sao!
No nê đâu chẳng thấy
Thần chết đến sẵn rồi.

取非義之財者, 譬如漏脯救饑, 鴆酒止渴, 非不暫飽死亦及之.
Thủ phi nghĩa chi tài giả, thí như lậu bô cứu cơ, trấm tửu chỉ khát, phi bất tạm bão, tử diệc cập chi.

CHƯƠNG 8. CHỈ VI
(CHỈ RA Ý NGHĨA TINH THÂM VI DIỆU)

Từng làm việc sai trái
Sau biết tự ăn năn
Không còn gieo nhân ác
Thiện hạnh ngày mỗi tăng.
Lâu dần việc thiện nhỏ
Sẽ chứa đầy chum to
Việc cát tường như ý
Ắt sẽ đến không lo.
Họa chuyển dần thành phúc
Từ sám hối mà ra.

夫心起於善, 善雖未為而吉神已隨之. 或心起於惡, 惡雖未為而凶神已隨之.
Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi nhi cát thần dĩ tùy chi. Hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi nhi hung thần dĩ tùy chi.

CHƯƠNG 9: SÁM HỐI TỘI LỖI

Từng làm việc sai trái
Sau biết tự ăn năn
Không còn gieo nhân ác
Thiện hạnh ngày mỗi tăng.
Lâu dần việc thiện nhỏ
Sẽ chứa đầy chum to
Việc cát tường như ý
Ắt sẽ đến không lo.
Họa chuyển dần thành phúc
Từ sám hối mà ra.

其有曾行惡事, 後自改悔, 諸惡莫作, 眾善奉行, 久久必獲吉慶, 所謂轉禍為福也.
Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu tất hoạch cát khánh, sở vị chuyển họa vi phúc dã.

CHƯƠNG 10: GIỚI ĐỊNH

Hiền nam tử, nữ nhân
Mỗi ngày miệng, mắt, thân
Đều là thiện không khác
Ba năm như một ngày
Trời sẽ ban phúc báu.
Kẻ nói, nhìn, làm ác
Trong thời gian ba năm
Một ngày tạo ba nghiệp
Trời sẽ giáng họa tai.
Rõ ràng việc họa phúc
Do chính mình gây nên
Thấu rõ đạo lý trên
Nên hành Thiên Cảm Ứng.

故吉人語善, 視善, 行善, 一日有三善, 三年天必降之福. 凶人語惡, 視惡, 行惡, 一日行三惡, 三年天必降之禍. 胡不勉而行之.
Cố cát nhân ngữ thiện, thị thiện, hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất giáng chi phúc. Hung nhân ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất nhật hành tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa. Hồ bất miễn nhi hành chi.

Tịnh Không Lão Pháp sư chủ giảng "Thái Thượng Cảm Ứng Thiên"

TẬP 1

Gần đây, có một số đồng tu yêu cầu tôi giảng lại Thái Thượng Cảm Ứng Thiên một lần nữa và mong muốn đưa đến đài truyền hình phát sóng. Đây là một việc tốt, thế nhưng thời gian giảng lại cũng tương đối dài. Chúng ta ở đây đã khai giảng đồng thời “Kinh Hoa Nghiêm”, “Kinh Vô Lượng Thọ” và “Kinh Địa Tạng”. Ba bộ Kinh này đã là nhiều rồi, nay lại thêm một loại nữa, tôi cảm giác phân lượng quá nặng, cho nên nghĩ tới nghĩ lui, tôi tranh thủ thời gian nửa giờ vào buổi sáng sớm, chúng ta dự định từ hai đến ba tháng sẽ giảng viên mãn giáo trình này.

Giáo trình này thực tế mà nói là rất trọng yếu. Cuối đời Thanh, đầu đời Minh, Ấn Quang Đại Sư đặc biệt đề xướng pháp môn này. Cuối đời nhà Thanh, Ấn Quang Đại Sư đang ở núi Phổ Đà, lúc đó tri huyện Định Hải (trào nhà Thanh gọi là tri huyện) lên núi lễ thỉnh Ấn Quang Đại Sư đến huyện Định Hải giảng Kinh hoằng pháp. Đại Sư là người Sơn Tây, khẩu âm địa phương rất nặng nên có trở ngại về mặt ngôn ngữ, Ngài liền phái một vị Pháp sư khác đến huyện Định Hải để giảng Kinh. Pháp sư giảng Kinh gì vậy? Dường như là giảng “Văn Xương Đế Quân Âm Trắc Văn”. Ở trên Văn Hiến, chúng ta xem được những tư liệu này thì rất kinh ngạc. Trưởng quan địa phương thỉnh Pháp sư giảng Kinh, nhưng Pháp sư không giảng Phật Kinh mà giảng Kinh điển của Đạo giáo. Ngài một đời cực lực đề xướng những loại thư tịch như “Liễu Phàm Tứ Huấn”, “Cảm Ứng Thiên”, cho nên người đời sau phê bình đối với Ấn Tổ rất nhiều. Đây đều là tri kiến của phàm phu.

Trong Phật pháp, tôi nghĩ rất nhiều vị đồng tu đều biết được có câu nói như thế này: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên”. Và có lẽ cũng có người đã nghe qua một câu nói khác: “Pháp nào không phải là Phật pháp?”. Chúng ta thử nghĩ, hai câu nói này là ý gì? Thực tế cái gọi là thế pháp cùng Phật pháp từ chỗ nào mà phân biệt vậy? Từ ở nơi tâm của bạn mà phân biệt. Ở nơi pháp, không có cái gì là thế gian pháp và xuất thế gian pháp, không có phân ra. Nếu như tâm của bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì đó gọi là thế gian pháp, cho dù bạn học “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” thì đó cũng là thế gian pháp. Tại sao vậy? Vì không ra khỏi tam giới. Nếu như rời khỏi phân biệt chấp trước thì hết thảy tất cả pháp đều có thể liễu sanh tử, xuất tam giới. Cho nên, pháp nào mà không phải là Phật pháp? Chúng ta cần phải hiểu rõ đạo lý này.

Hôm qua, chúng tôi đi thăm viếng Thiên Chúa Giáo, có một vị tiên sinh hỏi tôi một vấn đề: “Trong Thiên Chúa Giáo gọi là linh hồn, nếu so cùng pháp tánh mà Phật Giáo nói thì khác biệt ở chỗ nào?”. Tôi nói với ông ấy một cách đơn giản là có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì gọi linh hồn; không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì gọi là pháp tánh. Ông ấy liền hiểu được, có thể thể hội được. Có phải đó là một sự việc hay không? Chỉ là một. Một cái có phân biệt chấp trước, còn cái kia là rời khỏi phân biệt chấp trước. Có phân biệt chấp trước thì pháp pháp đều có chướng ngại, rời phân biệt chấp trước thì vạn pháp viên dung. Cho nên chúng ta phải biết, hư không pháp giới tất cả chúng sanh là một pháp tánh, “Kinh Hoa Nghiêm” nói là một pháp thân, “mười phương ba đời chư Phật cùng đồng một pháp thân”. Câu nói này các vị nghe cũng đã thuộc lòng. Đã cùng đồng một pháp thân, bạn thử nghĩ xem, pháp nào không phải là Phật pháp? “Cảm Ứng Thiên” làm sao có thể là ngoại lệ? Cũng là Phật pháp, huống hồ là “Cảm Ứng Thiên” và “Âm Trắc Văn”, từ đầu đến cuối, mỗi câu mỗi chữ đều là phát triển của ngũ giới, thập thiện.

Ngũ giới, thập thiện trong nhà Phật là pháp căn bản. Rời khỏi ngũ giới, thập thiện thì người này đang hành tà đạo. Không luận bạn tu học pháp môn nào, không luận là sơ học, A La Hán hay là Đẳng Giác Bồ Tát, nếu như bạn rời khỏi ngũ giới, thập thiện thì bạn đang hành tà đạo, vậy thì làm gì gọi là Phật pháp? Ngũ giới, thập thiện muốn giảng được viên mãn, giảng được thực tế thì “Cảm Ứng Thiên” cùng “Âm Trắc Văn” là giáo trình tốt, nhất là ở giai đoạn hiện tại này của chúng ta. Ấn Quang Đại Sư nói rất rõ ràng, thế gian này có động loạn, có tai nạn, nếu muốn cứu vãn tai nạn này chỉ có một phương pháp là hoán tỉnh tất cả chúng sanh chân thật giác ngộ, đoạn ác, tu thiện, cho dù tai nạn này không thể hoàn toàn hóa giải nhưng cũng làm cho tai nạn giảm nhẹ, thời gian của tai nạn được rút ngắn. Việc này chúng ta khẳng định có thể làm được.

Các vị đồng tu ở Đài Loan đến hỏi tôi, ở ngay trong đại kiếp nạn, Đài Loan có thể tránh được không? Tôi khẳng định là được. Người Đài Loan tạo tội nghiệp rất nặng, thế nhưng bạn nghĩ xem, họ bắt đầu tạo tội nghiệp từ lúc nào? Chẳng qua là hai mươi năm gần đây. Chúng ta nhớ lại hai mươi năm trước, người Đài Loan rất quy củ, rất giữ gìn phép tắc. Nếu nói đến ba mươi năm trước, phong khí của Đài Loan có thể nói là tốt nhất Đông Nam Á, nhân tâm thuần hậu hiền lương. Người Đài Loan tạo tội nghiệp là trong vòng hai mươi năm gần đây, phong khí xã hội này hoàn toàn thay đổi. Cho dù có tạo tội nghiệp, nhưng người tạo tội nghiệp không nhiều lắm, thời gian cũng không xem là quá dài, huống hồ người Đài Loan niệm Phật rất nhiều, người thiện tâm cũng rất nhiều, cho nên dù có kiếp nạn cũng sẽ không lớn lắm. Người Nhật Bản tạo tội nghiệp rất nặng, có thể nói là vô cùng nặng. Ở ngay trong đại nạn, quả báo mà họ nhận lấy phải nặng hơn Đài Loan gấp mười lần. Chúng ta từ trong đạo lý Cảm Ứng này mà nói, trồng nhân thiện được quả thiện; tạo nhân ác nhất định được ác báo, đây là chân lý của Cảm Ứng. Cho nên, Ấn Tổ cực lực đề xướng ba quyển sách này, đây là trí huệ chân thật, cứu vãn kiếp nạn của thế giới. Đại Sư Ngài cả đời cực lực đề xướng, người thật sự hiểu được lại không nhiều. Ấn Tổ vãng sanh rồi, người có thể kế tục Ngài phát dương quảng đại việc này càng ít.

Năm 1977, lần đầu tiên tôi tiếp nhận lời mời của các đồng tu Hồng Kông, đến bên ấy giảng “Kinh Lăng Nghiêm”. Lần đó, thời gian tôi ở lại Hồng Kông tương đối dài, ở hết bốn tháng. Hai tháng đầu, tôi ở Thư viện Trung Hoa Phật Giáo của Đàm Hư Pháp Sư, khu vực Cửu Long; hai tháng sau, ở đạo tràng của Thọ Dã Lão Hòa Thượng, Quang Minh giảng đường của Lam Đường đạo. Ở thư viện, tôi thấy được những thư tịch của Ấn Quang Đại Sư do Hoằng Hóa Xã xuất bản, nơi đó họ thâu tập được rất nhiều. Tôi cùng Ấn Tổ có quan hệ rất mật thiết, chúng tôi có quan hệ sư thừa. Thầy tôi, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là học trò của Ấn Tổ. Do đó, tôi đối với giáo huấn của Ấn Tổ cũng như sách của Hoằng Hóa Xã xuất bản liền tự nhiên có cảm tình rất sâu sắc. Trong thư viện nhỏ này đã cất giữ sách của Hoằng Hóa Xã, tôi toàn bộ thảy đều xem qua nên phát hiện ba quyển sách “Cảm Ứng Thiên Hội Biên”, “An Sĩ Toàn Thư” và “Liễu Phàm Tứ Huấn” được Hoằng Hóa Xã in rất nhiều, sách in rất tốt. Thư viện Trung Hoa Phật Giáo cất giữ số lượng sách này cũng không ít. Tôi liền lấy một phần, mỗi thứ lấy một quyển mang trở về Đài Loan. Tôi xem mặt sau tờ bản quyền của ba quyển sách này, mỗi bản số lượng in ít nhất là mười ngàn quyển, nhiều nhất là năm mươi ngàn quyển và đã in [tái bản] mấy mươi lần. Tôi thống kê khái quát, số lượng của ba quyển sách này vượt hơn ba triệu bản. Việc này khiến cho tôi vô cùng kinh ngạc. Hoằng Hóa Xã in các thư tịch khác, mỗi một bản chỉ có một ngàn bản, hai ngàn bản, vì sao ba loại sách này in nhiều đến như vậy? Điều này dẫn khởi sự chú ý của tôi. Tôi bình tĩnh suy nghĩ tỉ mỉ, Ấn Tổ khổ tâm muốn cứu tai nạn này, cứu kiếp nạn này, ba loại sách này rất tốt.

Tại rất nhiều nhà sách, các vị đồng tu đều có thể xem thấy lời dự ngôn cổ lão của phương Tây. Có rất nhiều chủng loại, tôi đã xem qua mười mấy loại, đều nói năm 1999 là ngày tàn của thế giới. Đại kiếp nạn này có tính hủy diệt, hơn nữa thời gian kiếp nạn này rất dài, đại khái phải kéo dài hơn hai mươi năm. Hơn hai mươi năm này chính là bắt đầu từ năm 1990, đại khái phải đến năm hai ngàn mười mấy, tai nạn này mới xem là có thể qua được. Những sách này của phương Tây chỉ nói rõ có những tai nạn này là do chúng sanh tạo ác nghiệp, Thượng đế tức giận nên trừng phạt thế nhân, muốn đem thế giới này sửa đổi lại từ đầu. Đây là một “Túc Mạn Luận”, còn xa mới bằng “Liễu Phàm Tứ Huấn” và “Cảm Ứng Thiên”, vì những thư tịch này có phương pháp cứu vãn, còn họ chỉ đề xuất kiếp nạn mà không có biện pháp cứu vãn. Trong dự ngôn phương Tây có một loại gọi là “Thánh Kinh Mật Mã”, cái này so với dự ngôn còn cao minh hơn. Bên trong kết luận cuối cùng nói là do lòng người, nếu như nhân tâm có thể hồi đầu, nhân tâm có thể hướng thiện thì kiếp nạn này có thể hóa giải. Thế nhưng chỉ nói một câu chung chung như vậy, còn làm thế nào để hồi đầu, làm thế nào để đoạn ác tu thiện thì không nói rõ một cách cụ thể, vẫn còn kém xa ba loại sách này. Ba loại này, không luận là nói lý hay nói sự, đều nói được rất thấu đáo.

Thực tế mà nói, chúng ta giác ngộ quá chậm, cũng là vì chúng sanh thế giới này phước báo kém một chút. Vì sao nói chúng ta giác ngộ quá chậm vậy? Vì chúng ta không có đem mấy loại sách này phiên dịch sang chữ nước ngoài để lưu thông trên toàn thế giới. Chúng ta không hiểu được tính trọng yếu này. Nếu ba loại sách này có thể dịch thành nhiều thứ tiếng với số lượng lớn, được lưu thông trên toàn thế giới thì sẽ có sự giúp đỡ rất lớn. Chúng ta không hiểu rõ, bây giờ biết được, chân thật đã không còn kịp nữa. Thế nhưng “mất bò mới lo làm chuồng”, chúng ta vẫn phải làm. Hy vọng mọi người phát tâm. Chúng tôi dẫn đầu để đi làm, tận khả năng đem nó dịch thành văn tự nước ngoài để có thể lưu thông đến toàn thế giới. Ai có duyên đọc được quyển sách này là người có phước. Hơn nữa, chúng ta có trách nhiệm, có sứ mạng khuyên bảo mọi người đọc tụng thọ trì, y giáo phụng hành, không những có thể chuyển biến nghiệp báo của chính họ mà còn có thể an định xã hội, giúp đỡ tất cả chúng sanh thế gian này tiêu tai giải nạn.

Từ Hồng Kông trở về Đài Loan, tôi đề xướng quyển “Cảm Ứng Thiên Hội Biên”. Tôi in lần đầu tiên, đến nay tổng cộng đã in qua rất nhiều lần, đại khái số lượng cũng sắp gần một triệu bản. Năng lực của chúng ta rất có hạn, đã in “Cảm Ứng Thiên Hội Biên”, “An Sĩ Toàn Thư” và “Liễu Phàm Tứ Huấn”. Ở Đài Loan tôi đề xướng phiên dịch lưu thông, hơn nữa ba loại sách này cũng đều đã giảng qua mấy lần, bao nhiêu lần tôi không nhớ rõ. Lúc đó tôi giảng “Cảm Ứng Thiên” là dùng quyển này, cho nên bên trong sách có viết ghi chú, chỗ quan trọng đều đã đánh dấu. Mấy ngày trước, khi các vị đồng tu yêu cầu tôi giảng, tôi liền tìm cho ra quyển này. Tìm được thì ít tốn công, bởi vì khi giảng giải tôi không cần phải chuẩn bị nữa. Hy vọng các vị đồng tu nên xem trọng vấn đề này, chân chính đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Ấn Tổ dùng ba loại này để bù đắp giới hạnh thiếu sót của chúng ta.

Pháp môn niệm Phật, Tổ sư Đại đức thường dạy bảo chúng ta là trì giới niệm Phật. Niệm Phật mà không trì giới, không hành thiện thì không thể vãng sanh. Cổ nhân đã nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng chỉ uổng công!”. Cho nên tối trọng yếu là giữ tâm thiện, nói lời thiện, làm việc thiện. Đây cũng là kết luận cuối cùng của “Cảm Ứng Thiên”. Giữ tâm thiện, lời nói thiện, việc làm thiện, trong “Cảm Ứng Thiên” nói là bạn sẽ được thiện thần bảo hộ, trong Tịnh Độ nói là bạn niệm Phật mới được vãng sanh. Thế gian hiện nay tai nạn rất nhiều, nếu chúng ta gặp phải tai nạn thì không nên khiếp sợ.

Ngày hôm qua, chúng tôi thăm viếng viện dưỡng lão. Chúng tôi nhìn thấy có hai mươi mấy vị, những người già này bị bệnh ung thư thời kỳ cuối. Tôi nói với các nữ tu ở đây, đối với những người già này cần phải cho họ hy vọng, không nên để họ bị tổn thương, nên lấy giáo dục tôn giáo để khai mở dẫn dắt họ. Con người không có “chết”, sanh tử là việc bình thường, là chúng ta chuyển đổi đến một hoàn cảnh khác. Khi quan niệm được chuyển đổi lại, thì họ đối với việc sanh tử liền sẽ xem nhẹ, tâm của họ sẽ được bình lặng. Đây là điểm chuyển ngoặc, chúng ta sẽ chuyển vào một hoàn cảnh tốt hơn, một đời sống tốt hơn. Cho nên, giáo dục tôn giáo rất là quan trọng. Bạn xem, họ chăm sóc nhi đồng, chăm sóc những đứa trẻ khuyết tật này còn cá biệt dạy dỗ, thì đối với người già cũng phải làm như vậy, làm sao có thể lơ là được? Người già cần phải khai thị một cách cá biệt, thường phải thăm hỏi an ủi họ, so với dạy bảo trẻ nhỏ trọng yếu như nhau. Những người già này cần phải có người thường xuyên nói chuyện với họ, đem đại đạo lý này nói cho họ nghe, giúp đỡ họ thoát khỏi thống khổ sanh tử. Nếu là người học Phật nhất định khuyên dạy họ cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thiên Chúa Giáo, Ki Tô Giáo, bạn cũng khuyên dạy họ, nhất định phải cầu sanh thiên đường. Thiên đạo so với nhân đạo thù thắng hơn nhiều. Đây là giáo dục, không chỉ giúp đỡ những người già trên đời sống vật chất, mà trên đời sống tinh thần nhất định không thể khiếm khuyết. Mặt giải trí tiêu khiển cũng phải tăng cường. Ngày hôm qua, những vị nữ tu đó nói với tôi, có một số thanh niên đến đây ca hát, phục vụ biểu diễn cho các cụ xem, nhưng người già không thích nghe. Tôi nói, đương nhiên là vậy, người già nghe loại âm nhạc bây giờ rất chán ghét, họ làm sao có thể nghe lọt vào tai được? Tôi nói, các vị cần phải hiểu được tâm tình của người già, các vị cần phải mở phát âm nhạc từ ba mươi năm trở về trước, họ liền sẽ thích nghe. Những bài ca cũ của bốn mươi năm trước, sau khi họ nghe rồi biết là lúc trẻ họ đã ca, trong lòng họ liền bị cảm động. Tôi nói rồi, họ mới nghĩ đến. Tôi nói, các vị cần phải tìm những thứ này, những biểu diễn ca vũ bây giờ người già không thích xem, phải cho họ xem kịch Triều Châu, kịch xưa. Khi các vị đem những thứ này đến thì họ liền hoan hỷ. Họ là người của thời đại nào, bạn phải dùng những thứ của thời đại đó thì họ liền thích ứng. Đây là việc mà chúng ta đều phải nghĩ đến. Cần phải thường nói chuyện với người già, để biết họ thích gì, họ hy vọng thứ gì thì chúng ta chuẩn bị giúp họ. Đây mới thật sự là chăm sóc người già, để người già được vui lòng, để người già sống được rất tự tại, như vậy các vị mới tận hết được trách nhiệm.

Tối hôm qua, tôi đã nói những sự việc này với Lý Mộc Nguyên cư sĩ. Lý cư sĩ nói: “Chúng ta sẽ tận lực đi tìm những băng ghi âm của những bài ca cũ, những hý kịch để tặng cho họ”. Trong số họ, người Trung Quốc rất nhiều. Cách làm này có thể nói đều là thực hiện việc đoạn ác, tu thiện.

Quyển sách nhỏ “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên” này rất tốt. Vừa rồi tôi đã xem qua, họ chỉ in có một ngàn quyển, rất ít. Quyển này đọc tụng rất tốt, mang theo thuận tiện, chúng ta nên thường xuyên đọc. Phía sau còn có “Văn Xương Đế Quân Âm Trắc Văn”, hai thứ này đều ở bên trong, cuốn này rất lý tưởng. Vậy trong hai, ba tháng này, chúng ta dùng nửa giờ của buổi cơm sáng, cùng mọi người nghiên cứu quyển sách nhỏ này.
*************
II. ĐỀ BÀI
Các vị đồng tu! Hôm nay, chúng ta bắt đầu cùng nhau học tập “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”. Thiên văn chương này cũng không dài lắm, chỉ có hơn một ngàn ba trăm chữ. Đề bài gọi là “THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN”.

“Thái Thượng”, hai chữ này là tôn xưng, hàm ý rất sâu. Phật Bồ Tát vì chúng ta giảng Kinh nói pháp hoàn toàn là lưu xuất từ tự tánh, cho nên không phải một người nào đó nói. Nếu như chúng ta cho rằng Phật Kinh là Thích Ca Mâu Ni Phật nói thì sai rồi. Trong rất nhiều Kinh luận chúng ta xem thấy, Phật tự mình nói là Ngài cả đời chưa từng nói Kinh, Ngài cả đời chưa từng nói qua một chữ. Lời nói này là lời thật, không phải khiêm tốn, cũng không phải tùy tiện nói. Phàm phu chấp trước có ta, cho nên khi nói pháp thì nói “ta nói” hoặc “ông nói”. Chư Phật Bồ Tát là vô ngã, trong “Kinh Kim Cang” nói rất rõ ràng, không những là vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng, mà ngay đến ý niệm cũng không có, gọi là vô ngã kiến, vô nhân kiến, vô chúng sanh kiến, vô thọ giả kiến (kiến là kiến giải), không những không chấp trước ý niệm, mà ngay cả ý niệm cũng không có. Ngài từ nơi nào nói vậy? Là lưu xuất từ chân tánh. Chân tánh không phải là chân tánh của người khác, mà là chân tánh của chính chúng ta. Đạo lý này chúng ta nhất định phải hiểu. Lưu xuất của tự tánh, đây là chân thật, còn nếu như từ tâm ý thức (ý thức là của cá nhân) thì lời nói này không thể tin cậy.

Thánh nhân xuất thế gian, trong Phật pháp thường nói là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Thế gian cũng có Thánh nhân, những người này có kiến tánh hay không, có thành Phật hay không? Phật có phương tiện ngữ nói, Thánh nhân thế gian chưa thể kiến tánh. Đây là lời nói phương tiện. Nói lời chân thật, trong Đại Thừa Kinh luận nói được rất nhiều. Chư Phật Như Lai ứng hóa ở thế gian là tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, làm thế nào biết họ không phải là chư Phật Như Lai hóa thân thị hiện? Lúc trước có người nói Khổng Tử là Đồng Nho Bồ Tát. Có người đến hỏi tôi, họ nói lời nói này có đáng tin hay không? Chúng ta y theo lệ quen trả lời của Tổ sư, không thể giới hạn có hay không. Bởi vì bạn nói ông ấy là Bồ Tát nhưng tìm không có chứng cứ thì chúng ta không thể tùy tiện nói. Nếu bạn nói ông ấy không phải là Bồ Tát, từ trên nguyên lý mà nói, cũng có khả năng Bồ Tát ứng hóa ở thế gian. Nếu như thật sự khế nhập cảnh giới thì tất cả chúng sanh, người nào không phải là Bồ Tát, người nào không phải là Như Lai?

Đề tựa này cũng là như vậy, bổn văn cũng là như vậy, vừa mở đầu thì đề lên hai chữ “Thái Thượng”. Các vị đồng tu học Phật chúng ta phải nên hiểu rõ, đề lên hai chữ này là lưu lộ của tự tánh, tánh đức, là chí cao vô thượng. Nói cách khác, chúng ta có thể lý giải, có thể phụng hành chính là thuận theo tánh đức. Thuận theo tánh đức chính là chân thiện, trái với tánh đức gọi là ác. Đây là tiêu chuẩn tối cao của thiện và ác, là tiêu chuẩn tuyệt đối của thiện và ác. Hai chữ này đề lên ở đây để chúng ta phải cảnh giác, không thể lơ là, dụng ý là ở chỗ này.

Kế tiếp là “Cảm” và “Ứng”. “Cảm”, người xưa có một thí dụ giống như trồng trọt, “Ứng” là khai hoa kết quả. Dùng hai chữ này làm tên gọi cho một tác phẩm văn chương, chính là nói có cảm tất nhiên có ứng. Đây là đạo lý gì? Cảm ứng đều là y theo tự tánh mà sanh khởi. Tự tánh biến tất cả mọi nơi, biến tất cả thời, ngày nay chúng ta nói thời gian và không gian. Trong tự tánh không có phân ra, thời gian và không gian là một mảng, cho nên có cảm tất có ứng. Trên thân thể chúng ta, chúng ta nói là “nhổ một sợi tóc làm động toàn thân”. Một sợi tóc bé nhỏ không đáng kể, nếu như chúng ta kéo thẳng nó thì toàn thân liền cảm thấy khó chịu. Bạn động đến một sợi tóc, đây là cảm; toàn thân khó chịu, đó là ứng. Do đây có thể biết, khởi tâm động niệm, lời nói, hành động của chúng ta không nên cho rằng đây là chuyện nhỏ, không hề gì. Một ý niệm nhỏ nhất đều có thể chấn động hư không pháp giới, nhưng chúng ta không biết, không nhận ra. Giống như một sợi lông tơ trên thân chúng ta vậy, chúng ta nhổ một sợi lông tơ thì toàn thân đều có thể cảm nhận được. Cái này mọi người đều biết, đây là một thân thể chúng ta. Thế nhưng bạn không thể liễu giải được hư không pháp giới tất cả chúng sanh là pháp thân thanh tịnh của chính mình, đều là một thể. Chính bởi vì nó là một thể, cho nên cảm ứng là bất khả tư nghì. Có cảm ắt có ứng, tùy cảm tùy ứng. Cảm ứng cũng có thể nói là quan hệ của nhân quả. Chúng sanh có cảm là nhân; chư Phật, Bồ Tát, Long Thiên, Quỷ Thần liền có ứng là quả. Hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ chân tướng sự thật này, bạn mới hiểu được lời cổ đức đã nói: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”. Thí dụ này ý nghĩa rất sâu, nói với chúng ta rằng, “trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, trồng nhân ác nhất định không thể tránh khỏi ác báo”. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay đã tạo tác nhân thiện ít, nhân ác nhiều. Ngay một đời này, nếu chúng ta lặng lẽ tư duy, tỉ mỉ mà quán sát thì thấy ở chung quanh chúng ta ác duyên nhiều, thiện duyên ít. Thiện duyên thì xúc tiến đạo nghiệp, xúc tiến hạnh thiện của chúng ta, còn ác duyên làm tăng trưởng ác niệm, tăng trưởng ác hạnh của chúng ta. Tương lai có quả báo thế nào thì tự mình chẳng phải rất rõ ràng, rất minh bạch hay sao? Đây đều là đạo lý của cảm ứng. Cổ nhân thường nói: “Lưới trời lồng lộng, một mảy trần cũng không lọt”. Hai câu nói này cũng là đạo lý của cảm ứng. Đây là chân lý, là chân tướng sự thật.

III. PHẦN CHÁNH VĂN
Tổng cương lĩnh của tác phẩm này chính là bốn câu phía trước:

Chánh văn: “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu; thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình”.

Những văn tự phía sau đều là phát triển bốn câu này, nói rõ tỉ mỉ của bốn câu này mà thôi. Chúng ta học tập phải nắm được cương lĩnh của bốn câu này. Khởi tâm động niệm, lời nói tạo tác có tương ưng cùng với tánh đức hay không? Nếu tương ưng với tánh đức thì chúng ta có thể nghĩ như vậy, có thể làm như vậy; còn nếu trái với tánh đức, chúng ta phải biết không thể nghĩ như vậy, không thể nói như vậy, cũng không thể làm như vậy.

Phật ở trong tất cả Kinh Luận dạy bảo chúng ta, đặc biệt là chúng sanh thời Mạt Pháp, nếu muốn đạo nghiệp thành tựu, điều kiện thứ nhất là thân cận bạn hữu, điều này xếp ở hàng thứ nhất. Trong Kinh Tiểu Thừa cũng không ngoại lệ. Trước đây chúng ta đã đọc qua “A Nan Vấn Phật Sự Kiết Hung”, câu đầu tiên trên Kinh này là Phật dạy bảo chúng ta phải “thân cận minh sư”. Thân cận minh sư chính là thân cận thiện hữu, thiện tri thức mà trên Đại Thừa Kinh đã nói. “Kinh Địa Tạng” nói, phàm phu trong lục đạo tánh thức bất định, cũng giống như trong ngạn ngữ thường nói “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Câu này ý nói, chúng ta nhất định bị ảnh hưởng của hoàn cảnh, bị ảnh hưởng bởi thế giới bên ngoài. Chúng ta làm không được cảnh tùy tâm chuyển. Thực tế mà nói, chúng ta là tâm tùy cảnh chuyển. Vì vậy, hoàn cảnh đối với chúng ta rất quan trọng.

Từ xưa đến nay, các Tổ sư Đại đức, những người chân chính có tu hành, có công phu của định huệ, họ có thể chuyển cảnh giới, họ không bị cảnh giới chuyển. Thế nhưng họ dạy học trò, dạy đồ đệ vẫn cứ phải lựa chọn hoàn cảnh. Tại sao vậy? Vì những người này là phàm phu, không thể chuyển được cảnh, nhất định sẽ bị ngoại cảnh ảnh hưởng, cho nên không thể không chọn lựa hoàn cảnh. Trong hoàn cảnh tu học, thiện hữu là điều kiện thứ nhất. Bạn có thể thường xuyên thân cận thiện tri thức, thân cận lão sư tốt, thân cận đồng tham đạo hữu tốt, điều này nhất định có sự giúp đỡ cho đạo nghiệp của bạn.

Trong “Cao Tăng Truyện” hoặc trong “Cư Sĩ Truyện”, chúng ta thấy được từ xưa đến nay, những vị Đại đức thân cận thiện hữu mười mấy năm, hai hay ba mươi năm, có khi cả đời đều không rời khỏi. Họ học xong rồi thì có thể rời khỏi lão sư, nhưng vì sao họ vẫn không chịu rời khỏi? Đó là làm tấm gương tốt cho đời sau, hầu bên cạnh lão sư, làm trợ giáo cho lão sư, tiếp dẫn các bạn đồng học đến sau. Đến khi lão sư vãng sanh, viên tịch rồi, họ mới rời khỏi và đi giáo hóa một phương. Chúng ta xem, từ xưa đến nay, Tổ sư Đại đức, người làm cách này rất nhiều, cũng là chân thật thực hiện lời dạy bảo của Thế Tôn. Trừ khi là duyên không đủ, vậy thì không phải bàn. Thế nhưng cũng cần phải tự mình đạo nghiệp thật sự có thành tựu thì mới có thể rời khỏi.

Như thế nào gọi là thành tựu? Trong Phật pháp có một tiêu chuẩn, từ giải môn trí huệ mà nói, bạn có thể phân biệt chân-vọng, tà-chánh, thị-phi, thiện-ác, lợi-hại, xác thực có năng lực nhận biết. Điều kiện thứ hai, bạn có định công, không bị quấy nhiễu của ngoại cảnh, cũng chính là nói không thể bị dụ hoặc bởi ngoại cảnh, “ngoài không dính tướng, trong không động tâm”. Đầy đủ hai điều kiện này thì mới có thể rời khỏi lão sư; không đầy đủ hai điều kiện này, rời khỏi lão sư thì rất nguy hiểm, bởi vì bên trong bạn có phiền não, bên ngoài có dụ hoặc, bạn chống không lại dụ hoặc, bạn liền sẽ đọa lạc. Thế nhưng ngày nay sư đạo đã không còn nữa, chúng ta muốn thân cận thiện tri thức, nhưng thế gian này không còn thiện tri thức thì làm thế nào đây? Nếu như có thể tìm được mấy người đạo hữu chí đồng đạo hợp, mọi người có thể cùng nhau học tập, khích lệ lẫn nhau, lấy Đại đức xưa làm thiện tri thức. Tôi giới thiệu cho các vị, lấy A Di Đà Phật làm thiện tri thức. A Di Đà Phật ở đâu vậy? Trong “Kinh Vô Lượng Thọ”, trong Tịnh Độ Ngũ Kinh. Mỗi ngày đọc tụng, giảng giải, mỗi ngày cùng nhau học tập, như vậy chúng ta không rời khỏi thiện tri thức. Tôi ở nơi đây dùng internet kết duyên với các vị đồng tu, đối với mọi người cũng có được một chút chỗ tốt. Cự ly chúng ta tuy là xa, lợi dụng phương pháp khoa học bây giờ làm cho gần lại, chúng ta có thể mỗi ngày cùng nhau học tập.

Bốn câu nói mở đầu này phải thường thường ghi nhớ trong lòng để đề cao cảnh giác. Mỗi người có báo ứng của mỗi người, gia đình có báo ứng của gia đình, xã hội quốc gia cho đến thế giới đều trốn không khỏi định luật này. Ngày nay xã hội động loạn, thế giới bất an, chúng ta biết là do cộng nghiệp chiêu cảm. Nếu như có thể hóa giải kiếp nạn này, chỉ cần mọi người giác ngộ, hiểu rõ những chân tướng sự lý này thì kiên quyết có thể thay đổi được. Đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, buông bỏ tự tư tự lợi của chính mình, tất cả đều vì xã hội vì chúng sanh, kiếp nạn này liền có thể hóa giải. Thiên tai nhân họa đều là do ác nghiệp chiêu cảm mà ra. Rời khỏi ác nghiệp, không những tai nạn do con người làm ra không còn nữa, mà tai hại của thiên nhiên cũng không còn. Vì sao nói tai hại thiên nhiên không còn? Vì trên Kinh Đại Thừa thường nói là “cảnh tùy tâm chuyển”. Chỉ có sâu sắc thấu đáo đạo lý này thì họ mới chịu tin tưởng, họ mới chịu làm.

Bài văn này đoạn khúc, tầng thứ rất rõ ràng, cổ nhân phân thành mấy đoạn lớn. Chúng ta nhìn thấy “trực giải”. Trong “trực giải” phân làm mười đoạn. Chúng ta ở đây cùng nhau học tập, chúng ta cũng đem nó phân đoạn, giống như trong Kinh điển phân khoa phán giáo. Tương lai khi chúng ta giảng đến chỗ nào, tôi đem đoạn khác nói với các vị rõ ràng, dặn dò minh bạch, để các vị biết rõ đoạn này là nói sự việc gì. Bốn câu mở đầu là tổng cương lĩnh của toàn Kinh, tổng cương lĩnh của toàn thiên văn chương.

TẬP 2

“Tất” là tất định, là chữ rất khẳng định, cũng chính là nói nhân quả báo ứng là sự thật nhất định, người thế gian gọi là chân lý. Nếu một người có thể tu thiện tích đức thì con người này nhất định phát phước, phước báo tự nhiên sẽ hiện tiền. Nếu như một người tạo tác đều là bất thiện, thì cho dù gia đình họ, tổ tông cha mẹ của họ có phước báu, họ sanh vào nhà phú quý, nhưng nhất định họ sẽ thân bại danh liệt, nhà tan cửa nát. Những sự tích này trong lịch sử cổ đại ghi chép lại rất nhiều. Nếu chúng ta tỉ mỉ quan sát xã hội bây giờ, không luận ở trong nước, ngoài nước, bạn đều có thể nhìn thấy. Điều này chứng minh những lời cổ nhân đã nói là chuẩn xác. Đạo lý của cảm ứng chính là muốn chúng ta nhận thức nhân duyên quả báo, hiểu rõ nhân duyên quả báo, khẳng định sự thật của nhân duyên quả báo, làm thành tiêu chuẩn làm người ngay đời này của chúng ta. Khi đó, khởi tâm động niệm, lời nói, tạo tác của chúng ta tự nhiên liền có thể thu lại, liền có thể ràng buộc, biết hướng đến cái tốt, tránh cái xấu; biết được đoạn ác tu thiện. Đây gọi là giáo dục, là giáo hóa của Thánh Hiền nhân.

Xã hội đời nay có giáo dục hay không? Có thể nói là không. Quốc gia làm nhiều trường học đến như vậy, rốt cuộc là vì cái gì? Tôi nhớ lại lúc mới xuất gia, khi đang quét rác ngoài cửa Chùa Lâm Tế ở Viên Sơn (khu vườn ngoài cửa rất lớn, có rất nhiều cây, mỗi ngày phải đi quét lá cây rụng), tôi gặp mấy người học sinh đi từ con đường đó lên Viên Sơn chơi, cử chỉ hành vi của họ không giống người có học. Sau khi xem thấy, tôi rất cảm thán, nên nói với một vị cùng quét với tôi (chúng tôi, mấy sư huynh đệ nói chuyện với nhau): “Đáng tiếc, những người này chưa nhận qua sự giáo dục”. Vậy mà người kia nghe được (họ có ba người cùng đi), họ liền quay đầu lại hỏi tôi: “Ông nói chúng tôi chưa nhận qua giáo dục có phải không?”. Tôi nói: “Đúng vậy, không sai! Không giống như người nhận qua giáo dục”. Họ nói: “Chúng tôi là học sinh năm thứ tư của Đại học pháp Học viện Đài Loan, ông làm sao có thể nói chúng tôi chưa nhận qua giáo dục?”. Họ lý luận với tôi như vậy. Tôi nói: “Tốt lắm! Các vị nói, các vị đã nhận qua sự giáo dục, tôi hỏi các vị, chữ “giáo” giảng giải như thế nào, chữ “dục” giảng như thế nào và “giáo dục” giảng giải như thế nào? Hãy giảng cho tôi nghe”. Họ không thể nói ra được, thế là uy phong đó của họ liền hạ thấp xuống. Học sinh của bốn mươi năm trước so với học sinh bây giờ không giống nhau. Uy phong của họ liền xuống thấp, họ hỏi ngược lại tôi, thỉnh giáo với tôi. Tôi liền nói với họ: “Giáo dục là đạo lý dạy bạn làm người, các vị đã học qua chưa? Giáo dục cổ xưa của Trung Quốc, từ Hạ, Thương, Châu ba đời, mãi đến năm cuối đời nhà Thanh, tông chỉ đều không có thay đổi. Trong giáo dục có ba mục đích:

- Thứ nhất là dạy bạn quan hệ giữa người và người. Hiếu thuận phụ mẫu, tôn kính sư trưởng, thương yêu anh em, thân ái bạn bè.
- Thứ hai là dạy bạn hiểu rõ quan hệ giữa người và đại tự nhiên.
- Thứ ba là dạy bạn hiểu rõ quan hệ giữa con người và trời đất quỷ thần.

Các bạn đã học qua chưa? Các bạn chưa hề học qua. Đem áp dụng trong đời sống, giáo dục tiểu học dạy bạn tưới nước, quét đất, ứng đối, các bạn đã học qua chưa? Vẫn chưa học qua. Tôi xem kiểu dáng này của các bạn thì biết là các bạn chưa nhận qua giáo dục này”.

Họ hỏi ngược lại tôi: “Bây giờ chúng tôi đang học đại học, vậy được xem là cái gì?”. Tôi nói: “Bạn hỏi rất hay! Hiện giờ các bạn đang học là tri thức chuyên tập sở. Tôi gọi tên này, các bạn cảm thấy có đạo lý hay không? Bảng hiệu của đại học đó phải nên lấy xuống. Cao đẳng tri thức chuyên tập sở là danh xưng đúng với thực tế, nó không phải là giáo dục đại chúng phổ biến”.

Ngày nay mọi người đều đã quên mất “giáo dục”, cho nên xã hội động loạn, đời sống nhân dân khó khăn, không phải là không có nguyên nhân. Xã hội chỉ biết truyền thụ khoa học kỹ thuật, đem căn bản giáo dục bỏ mất. Ngài Thanh Liên Đại Sư ở trong “Luận Quán Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh” tiết lục ra ba mục tiêu giáo dục của nhà Phật.

- Thứ nhất, dạy người đoạn ác tu thiện.
- Thứ hai, dạy người chuyển mê thành ngộ.
- Thứ ba, dạy người chuyển Phàm thành Thánh.

Lúc giảng Kinh tôi cũng hay nhắc đến, dạy bạn chuyển ác làm thiện chính là giúp bạn nhất định không đọa ba đường ác đời này, đời sau bạn vẫn cứ có thể hưởng phước báo nhân thiên. Đây gọi là giáo dục.

Thứ hai là chuyển mê thành ngộ. Đây là siêu việt sáu nẻo luân hồi, chứng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật (pháp giới bốn Thánh trong mười pháp giới). Chuyển mê thành ngộ là đem cảnh giới đời sống của bạn không ngừng nâng cao hướng lên trên. Đây là giáo dục.

Mục tiêu cuối cùng là chuyển phàm thành Thánh. Đó là siêu việt mười pháp giới, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Đây là giáo dục.

Chúng ta nhìn lại xem, xã hội ngày nay dạy cái gì? Dạy bạn khoa học, dạy bạn những năng lực này. Sau khi bạn học xong những năng lực này thì tạo nghiệp. Mấy ngày trước có một vị đồng tu ở Âu châu đến nói với tôi, phần tử tinh anh nhân tài kiệt xuất của xã hội chính là những nhà khoa học. Những phần tử tinh anh kiệt xuất nhân tài này tạo bom nguyên tử, tạo vũ khí hạt nhân. Họ thông minh tuyệt đỉnh, tạo ra những thứ này để tương lai giết người. Một đầu đạn nguyên tử giết mấy mươi vạn người, mấy trăm vạn người. Nó có thể giết chết nhiều người đến như vậy, quả báo nhất định là ở địa ngục. Kiệt xuất nhân tài này tương lai họ sẽ đi đến nơi nào vậy? Đến A Tỳ địa ngục, họ đi rất nhanh. Giáo dục Nho gia Trung Quốc, giáo dục nhà Phật tuyệt đối không dạy người làm những sự việc này. Bạn xem trong giới luật của Kinh Phật, chế tạo những công cụ để giết hại chúng sanh đều là trọng tội sát sanh. Ngày xưa tạo ra những thứ công cụ gì? Đó là cung tên. Cung tên chỉ giết hại một súc sanh, tội lỗi này cũng đã cực trọng rồi. Phật ở trên Kinh nói rất hay: “Người chết làm dê, dê chết làm người”, oan oan tương báo không thể ngừng dứt. Bạn giết hại một súc sanh, nghiệp báo còn không thể tránh khỏi, nếu bạn giết hại nhiều người đến như vậy, làm sao tránh khỏi đọa địa ngục? Người thế gian thường nói: “Vĩnh kiếp không thể đầu thai”. Lời nói này là thật, không phải giả. Tôi đã nói qua rất nhiều lần, vẫn phải nói rất nhiều lần nữa, tại sao vậy? Vì các bạn không ghi nhớ, không thể hội được cái ý này.

Thế giới vốn dĩ chính là đa nguyên, nếu muốn đem nó biến thành nhất nguyên thì không thể được. Làm sao biết không thể được? Thân thể này của chúng ta là tiểu vũ trụ, hoàn cảnh bên ngoài là đại vũ trụ. Đại vũ trụ cùng tiểu vũ trụ hoàn toàn tương đồng. Đại vũ trụ phức tạp thế nào thì tiểu vũ trụ này của chúng ta cũng phức tạp thế đó. Nhà Phật nói y báo và chánh báo là tương đồng. Thân thể chúng ta chính là đa nguyên, con mắt không phải là lỗ tai, lỗ tai không phải lỗ mũi, lỗ mũi không phải cái lưỡi, đa nguyên đấy mà, bạn làm sao có thể thống nhất? Nếu nói thân thể này của tôi cái gì cũng không cần, chỉ cần con mắt, có được hay không? Không thể được! Vậy bạn mới hiểu được đa nguyên. Chẳng những đa nguyên, mà bạn còn cảm thấy mỗi cái đều đệ nhất. Mắt là đệ nhất, tai là đệ nhất, lưỡi cũng là đệ nhất, thảy đều là đệ nhất, không có đệ nhị. Có đệ nhị thì đánh nhau rồi, nên không có đệ nhị. Từ chỗ này bạn có thể thể hội được, trong vũ trụ, vạn sự vạn pháp mỗi mỗi đều đệ nhất, không có đệ nhị. Khi tiếp xúc với các tôn giáo khác, tôi cùng với các vị lãnh đạo những tôn giáo này thường nói đệ nhất, Ki Tô giáo của bạn đệ nhất, Hồi giáo cũng đệ nhất, vấn đề của mọi người liền được giải quyết. Kinh Phật của chúng ta đệ nhất, Thánh Kinh của bạn cũng đệ nhất, Kinh Cô Ran cũng đệ nhất, tất cả vấn đề đều hóa giải, mọi người liền có thể cùng hòa thuận với nhau. Tôi là thật, bạn là giả thì làm sao không đánh nhau? Đánh đến chết đi sống lại, tạo tác tội nghiệp cực trọng, dẫn đến oan oan tương báo.

Phật nói mê-ngộ, phàm-Thánh chính là ở một khoảng mê và ngộ. Một niệm giác ngộ chính là Phật, là Bồ Tát, là Thánh nhân. Ngộ cái gì? Ngộ vạn pháp bình đẳng, mỗi cái đều đệ nhất. Các vị xem “Kinh Hoa Nghiêm”, từ đầu đến cuối có đệ nhị hay không? Tìm không ra, mỗi mỗi đều đệ nhất. Trong “Kinh Lăng Nghiêm”, các vị cũng đã đọc qua “Nhị Thập Ngũ Viên Thông Chương”, hai mươi lăm vị Bồ Tát này mỗi vị đều đệ nhất, không có nói vị nào là đệ nhị. Khi biết được mỗi pháp đều bình đẳng, mỗi cái đều đệ nhất, chúng ta mới có thể tôn trọng lẫn nhau, tâm tôn trọng người khác, tâm kính yêu người khác tự nhiên liền sanh ra. Đây mới có thể giải quyết vấn đề xã hội, có thể mang đến sự an định xã hội, thế giới hòa bình. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng, đều có thể trải qua đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Chúng ta thấy xã hội hiện nay, các cấp lãnh tụ thường nói những lời này ở trên miệng, thế nhưng kết quả đích thực lại là nhiễu loạn xã hội, phá hoại hòa bình. Lời nói và việc làm hoàn toàn trái nghịch nhau, nguyên nhân ở đâu vậy? Thành thật mà nói, chưa nhận qua giáo dục. Thời đại hiện nay, vấn đề đã phát triển đến giai đoạn cực nghiêm trọng, gọi là thế giới sắp bị hủy diệt, Ki Tô giáo, Thiên Chúa giáo nói ngày cùng của thế giới. Ngày cùng ở lúc nào vậy? Là năm nay, năm 1999. Chúng ta cũng xem là rất may mắn gặp được lúc này. Đại tai nạn này có thể hóa giải hay không? Có thể! Phật nói với chúng ta: “Y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Thiên tai nhân họa là y báo, chánh báo là nhân tâm. Chúng ta cần phải đoạn ác tu thiện, phá mê khai ngộ, tai nạn này liền được hóa giải.

Thôn Di Đà của chúng ta duyên vẫn chưa chín muồi. Trước tiên chúng ta xây dựng niệm Phật đường, xây dựng giảng đường. Tôi ở Singapore giảng Kinh đến nay đã mười hai năm rồi, được Lý Mộc Nguyên cư sĩ nhiệt tâm hộ trì là điều rất khó được. Trang nghiêm đạo tràng ở Cư sĩ Lâm, các bạn nhìn xem niệm Phật đường, xem giảng đường, chúng ta tại vì sao phải làm như vậy? Vì tất cả chúng sanh tiêu tai, tiêu nạn. Chúng ta giảng Kinh vì ai? Vì hư không pháp giới tất cả chúng sanh mà giảng, vì chư Phật Bồ Tát mà giảng. Tại vì sao chúng ta niệm Phật? Quyết không phải vì cầu cho chính mình, mà vì tiêu tai giải nạn cho tất cả chúng sanh thế giới này. Vì chính mình thì công đức rất nhỏ, vì tất cả chúng sanh thì công đức rất lớn. Trong Phật pháp thường nói “tích công bồi đức”, đây không phải ở trên sự tướng mà ở trên tâm. Tâm lượng của bạn phải lớn. Như thế nào gọi là tâm lượng lớn? Niệm niệm vì xã hội, niệm niệm vì chúng sanh thì tâm lượng này lớn. Niệm niệm vì chính ta, niệm niệm vì gia đình của ta, vì đoàn thể nhỏ của ta, vì đạo tràng nhỏ của ta thì công đức này nhỏ. Đây chính là y báo tùy theo chánh báo chuyển mà Phật đã nói.

Chánh báo là gì? Chánh báo chính là tâm ta. Tất cả vạn pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến, cho nên tâm có thể chuyển được cảnh giới, tâm có thể chuyển được vạn pháp. Học Phật phải từ chỗ nào mà học? Phải học cái tâm của Phật Bồ Tát, học tri kiến của Phật Bồ Tát, học hành nghi của Phật Bồ Tát. Trong này tối trọng yếu là tâm nguyện. Các Ngài giữ cái tâm gì, phát cái nguyện gì? Đây là căn bản. Căn bản chính xác rồi thì không có cái nào là không chính.

“Cảm Ứng Thiên” là từ Thánh Hiền lập tâm phát nguyện, luôn được áp dụng trong đời sống thường ngày đối nhân, xử thế, tiếp vật. Cổ đức đã nói, công dụng của nó có thể làm thành nấc thang siêu phàm nhập Thánh, là then chốt để chuyển họa thành phước. Ngày xưa, mỗi một triều đại ở Trung Quốc, người y theo bài này để tu học rất nhiều, họ được quả báo của cảm ứng rất thù thắng. Trong Hội Biên đã dẫn những nhân duyên công án này, bây giờ chúng ta gọi là chuyện xưa. Người phụng hành theo “Cảm Ứng Thiên” thì họ có được thiện báo, còn người tạo tác ác nghiệp thì thọ những ác báo. Sự thâu tập này có thể nói là rất phong phú, chúng ta đã được xem. Trên thực thế, sự thâu tập những nhân duyên công án này rất là hạn hẹp, còn sự tích của cảm ứng thì nhiều không kể xiết. Chỉ cần chúng ta tỉ mỉ quan sát, có rất nhiều công án đều ở chung quanh chúng ta, chúng ta làm sao có thể không tin tưởng, làm sao có thể không y giáo phụng hành? Ấn Quang Đại Sư lấy “Cảm Ứng Thiên” làm nền tảng tu học Tịnh Độ là rất có đạo lý. Một người có thể chân chính phụng hành “Cảm Ứng Thiên” và niệm Phật, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ thì quyết định có thể nắm chắc vãng sanh. Nếu như lời nói, việc làm của bạn hoàn toàn trái nghịch với “Cảm Ứng Thiên” thì bạn niệm Phật không thể vãng sanh. Ấn Tổ cả đời cực lực đề xướng, đây là trí huệ cao độ, là tâm đại từ đại bi của Ngài. Chúng ta phải nên biết, phải nên tôn trọng, phải nên cảm ân, phải nên y giáo phụng hành, đây mới là báo đáp.

Trung Quốc từ xưa đến nay, phần đông đại chúng trong xã hội đều rất coi trọng “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”, người y theo phương pháp này tu học rất nhiều, cảm ứng đạt được cũng bất khả tư nghì. “Cảm Ứng Thiên Hội Biên” là sự hội tập rất nhiều sự tích của cảm ứng, hiển lộ công tích rất lớn. Cổ nhân khuyên dạy chúng ta, tâm địa con người phải thuần hậu.

Lần này tôi đến Âu Châu chỉ có bốn ngày, các vị đồng tu cũng không bỏ qua, muốn tôi dùng thời gian bốn ngày này đem đại ý của “Liễu Phàm Tứ Huấn” giới thiệu cho mọi người. Đạo lý của cảm ứng, vừa mở đầu liền đã nói rõ, trong “Dịch Kinh” gọi là “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. Giữ tâm hậu đạo nhất định có hậu phước; giữ tâm không tốt, cho dù hoàn cảnh trước mắt rất thịnh vượng, thế nhưng không bao lâu ắt cũng sẽ suy thoái. Lý luận và sự thật này, xưa nay trong ngoài, chỉ cần chúng ta tỉ mỉ quan sát đều có thể nhìn thấy, hơn nữa còn thấy được rất rõ ràng. Không luận là cá nhân, không luận là gia đình, xã đoàn, hoặc giả là quốc gia, sự thịnh vượng đều ở chỗ tồn tâm hậu đạo, đoạn ác tu thiện.

Cổ nhân nói, phàm là người minh bạch đạo lý thì phải đem thiên văn tự này lưu thông rộng khắp. Chúng ta phải nên học tập Ấn Quang Đại Sư, Ngài ở ngay trong một đời toàn tâm toàn lực lưu thông bộ sách này. Ngoài ra, còn có “Liễu Phàm Tứ Huấn”, “An Sĩ Toàn Thư”. Ba cuốn sách này có số lượng lưu thông vượt khá xa Kinh điển Phật pháp. Ấn Quang Đại Sư làm như vậy là dụng ý gì? Chẳng phải là cứu vãn kiếp nạn thế gian hiện tại hay sao? Kiếp nạn này rất nghiêm trọng, chúng ta cần nhận thức rõ ràng.

Kiếp nạn từ cái gì tạo thành? Từ nhân tâm, nhân hạnh mà ra. Tâm hạnh bất thiện liền tạo thành kiếp nạn. Nhà Phật thường nói: “Y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Y báo là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, chánh báo là nhân tâm, là hành vi. Nhân tâm thiện thì hoàn cảnh đời sống chúng ta liền tốt; lòng người bất thiện thì hoàn cảnh liền đổi xấu đi. Cho nên, quyển sách này nhất định phải đọc thuộc, nghĩ sâu, khích lệ phụng hành. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói hành động, nghĩ xem cùng với lời giáo huấn của “Cảm Ứng Thiên” có tương ưng hay không? Nếu tương ưng thì chúng ta có thể nghĩ, có thể nói, có thể làm; không tương ưng thì không thể được. Cho nên, nhất định phải đọc thuộc trước, phải thường thường tư duy nghĩa lý ở bên trong. Đọc thuộc, nghĩ sâu, nỗ lực phụng hành thì tiền đồ của bạn là sáng lạn vô hạn.

Tôi bắt đầu học Phật năm hai mươi sáu tuổi. Rất nhiều bạn đồng tu đều biết, tôi không có phước báo, cũng không có tuổi thọ. Không chỉ một người, mà rất nhiều người xem tướng đoán mạng cho tôi đều nói tôi không qua khỏi tuổi 45. Tôi tin, vì rất nhiều đời trong nhà tôi đều không qua được 45 tuổi. Tôi không có phước báo là do trong đời quá khứ tôi không có tu phước. May mắn tôi vẫn còn một chút thiện căn, vẫn còn một chút thông minh trí tuệ đủ để tiếp nhận thiện pháp. Năm đó, lão cư sĩ Chu Kính Vũ đem “Liễu Phàm Tứ Huấn”, “Cảm Ứng Thiên” giới thiệu cho tôi. Sau khi đọc xong, tôi cảm thụ rất sâu sắc, biết được khuyết điểm của mình liền sửa đổi tự làm mới. Tôi học nhẫn nhục, học nhường nhịn. Bây giờ vẫn còn một chút thọ mạng và dường như vẫn còn một chút phước báo. Phước báo này không phải là của đời trước tu mà do chính đời này đã tu được, thực tế mà nói, đắc lực ở lời dạy dỗ của Ấn Tổ. Ba loại sách này tôi đều đã giảng qua rất nhiều. Lần này các vị đồng tu mời tôi giảng lại lần nữa. Tôi nói, tốt lắm. Đây cũng chính là lúc mọi người học Phật công phu không đắc lực, niệm Phật không thể được công phu thành khối, tham thiền không thể được thiền định, nghiên giáo không thể được viên giải, nguyên nhân ở chỗ nào vậy? Chúng ta phải tìm cho ra nguyên nhân này, tiêu trừ nhân tố đó thì không luận tu học pháp môn nào, công phu liền được đắc lực.

Hiện nay, thế giới này, mỗi một khu vực đều xảy ra tai nạn nhiều lần, năm sau nhiều hơn năm trước, lần sau nghiêm trọng hơn lần trước. Chúng ta cần phải có tâm cảnh giác. Tháng trước, có một vị đồng tu ở Âu Châu đưa đến ba quyển sách lớn là “Tây Phương Cổ Lão Đích Dự Ngôn”. Tôi dùng thời gian hai tuần để đọc. Đọc xong, tôi mới thật sự hiểu rõ. Ngày trước chúng ta cũng có xem qua một số quyển, nhưng là tiết lục ra không hoàn chỉnh nên không rõ, cũng là do tự mình tu dưỡng không đủ. Bây giờ nhìn thấy nguyên văn, nhìn thấy toàn bản, chúng ta mới hiểu được. Toàn thế giới đều biết, Đan Mã Tư là nhà dự ngôn nổi tiếng phương Tây. Con người này thực tế mà nói cùng Khổng tiên sinh trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” là nhân vật giống nhau. Ông đối với thay đổi của xã hội tương lai, tình huống bình loạn tính ra rất chính xác, nhưng không có biện pháp hóa giải. Trong “Liễu Phàm Tứ Huấn”, Khổng tiên sinh tính được rất chuẩn xác vận mạng của Viên Liễu Phàm nhưng cũng không có biện pháp sửa đổi. Viên Liễu Phàm rất may mắn gặp được Vân Cốc Thiền Sư dạy cho ông, mạng là tự mình tạo, đương nhiên tự mình có thể sửa. Cải tạo vận mạng, ông đã sửa thành công. Ở các triều đại của Trung Quốc, người giống như Liễu Phàm tiên sinh nhiều không thể đếm xuể. Bạn hiểu được đạo lý, hiểu được phương pháp, thì bạn liền có thể cải tạo vận mệnh, sáng tạo vận mệnh, tiền đồ của bạn là một mảng sáng lạn. Hiểu được đạo lý này là khó, không phải là một việc dễ dàng. Thấu triệt hiểu rõ phương pháp cũng không phải là dễ. Cho nên, chúng ta nhất định phải chăm chỉ học tập đạo lý này cho thật sâu sắc.

Chúng ta ở Singapore có cơ hội, có thời gian dài giảng đại Kinh, những đạo lý này đều có thể nói rõ cùng các vị. Thế nhưng nghe một lần, hai lần, ba lần, bạn thật sự có thể hiểu rõ hay không? Điều này chưa hẳn. Một lần, hai lần, ba lần là chỉ nghe nói mà thôi, tín tâm của bạn đều không thể kiến lập, huống hồ liễu giải. May mà phân lượng của bộ “Kinh Hoa Nghiêm” lớn, trước mắt với tiến độ này của chúng ta, tôi dự tính phải giảng đến mười lăm năm. Nếu như có duyên phận này, trong 15 năm huân tập, tôi tin người khai ngộ sẽ rất nhiều. Không có thời gian dài đến như vậy thì làm không được. Không thể trực tiếp ở hiện trường nghe Kinh thì bất đắc dĩ phải cầu lần sau. Bạn nghe băng đĩa, xem VCD, hoặc là từ trên mạng mà mở xem, đây là bất đắc dĩ mà cầu kỳ thứ. Nếu như mỗi ngày huân tập không gián đoạn để xây dựng tín tâm cũng cần phải có thời gian từ ba đến năm năm bạn mới có thể làm được. Người đời nay so với người xưa không giống nhau. Người xưa tâm họ định, rất thành thật. Tâm người thời nay bao chao, nông nổi, nếu không có thời gian từ ba đến năm năm thì không thể xây dựng tín tâm, thậm chí có người phải mất tám năm, mười năm mới thật sự có thể khai giải, thật sự có thể khế nhập.

Chính tôi là một thí dụ rất tốt. Ngay trong một đời của tôi, tâm địa bình lặng, điểm này so với người khác thì tôi mạnh hơn được một chút. Tôi không có dục vọng, với người vô tranh, với đời vô cầu nên tâm địa tương đối bình lặng. Điều này đối với sự tu học có sự trợ giúp rất lớn. Nếu như tâm bạn không bình, tâm địa bạn nông nổi, dục vọng rất nhiều, muốn tranh lấy danh văn lợi dưỡng, tham muốn năm dục sáu trần, đây là chướng ngại lớn nhất của sự tu hành. Những thứ này tạo tội nghiệp, nên công phu của bạn không có lực, đạo lý ở ngay chỗ này.

Một người tu hành thì một người được phước, một nhà tu hành thì một nhà được phước, một khu vực tu hành thì khu vực đó tránh khỏi được tất cả tai nạn. Singapore không lớn, chúng ta ở nơi này giảng Kinh trước sau cũng đã mười hai năm rồi. Vì sao các nơi khác cũng dùng mười mấy năm, thời gian giống nhau mà không có hiệu quả? Nơi này chúng ta xem thấy có một ít hiệu quả, nguyên nhân là giáo dục của Singapore không giống giáo dục của những nơi khác. Con người nơi đây thành thật, giữ phép tắc, rất quy củ. Sau khi nghe Phật pháp rồi, họ chăm chỉ suy nghĩ, họ biết đi làm, họ cảm thấy đây là việc tốt nên chăm chỉ làm. Khi nhiều người cùng làm thì liền hình thành một tập tục. Một quốc gia nhỏ như vậy mà có thể nhận được sự tôn kính của người khắp thế giới, tự nhiên có đạo lý của nó. Có thể thấy được đạo lý vẫn phải quy kết ở giáo dục.

Tôi nghe người khác nói với tôi, Lý Quang Diệu tiên sinh đã từng nhận qua giáo dục Anh ngữ, nếu như ông nhận qua giáo dục Hoa ngữ thì quản lý của Singapore so với bây giờ phải tốt hơn gấp mấy lần. Đây là trí huệ chân thật, là người tái lai, không phải phàm phu.

Giáo dục Hoa ngữ dạy người điều gì, chúng ta nên hiểu rõ. Trung Quốc từ Hạ, Thương, Châu ba đời, mãi đến cuối đời nhà Thanh, tông chỉ giáo dục không hề cải biến. Tông chỉ là ba việc:

- Thứ nhất, dạy bạn hiểu rõ quan hệ giữa người và người, bạn phải nên làm người như thế nào.
- Thứ hai, dạy bạn quan hệ giữa con người với hoàn cảnh tự nhiên.
- Thứ ba, dạy bạn hiểu rõ quan hệ giữa con người và thiên địa quỷ thần.

Bạn có thể thông đạt tường tận thì bạn chính là Thánh nhân. Giáo dục của nhà Phật cũng là ba sự việc này. Nhà Phật cho dù là Tiểu Thừa hay Đại Thừa, cho dù là tông phái nào, tông chỉ của giáo dục cũng là ba điều.

- Điều thứ nhất là chuyển ác làm thiện, trong ngũ thừa Phật pháp là nhân thiên thừa, bạn không thể đọa vào ba đường ác.
- Điều thứ hai là chuyển mê thành ngộ, bạn liền có thể siêu việt sáu cõi luân hồi, siêu việt ngoài ba cõi, làm A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật (Phật ở trong thập pháp giới).
- Điều thứ ba là chuyển phàm thành Thánh, đó chính là siêu việt mười pháp giới, trên “Kinh Hoa Nghiêm” đã nói là Pháp Thân Đại Sĩ.

Nếu chúng ta không nắm được cương lĩnh đối với giáo dục, bạn học là học những gì? Bạn thật sự minh bạch, thật sự hiểu rõ thì mới biết được tri ân báo ân. Người thế gian họ không biết được ân, họ báo cái ân gì? Tri ân báo ân ở trong Đại Thừa Phật pháp là khóa trình mà nhị địa Bồ Tát cần phải tu. Các vị thử nghĩ xem, địa vị này cao bao nhiêu? Hàng nhị địa Bồ Tát tu học tổng cộng có tám khoa mục, đây là một trong số đó. Mỗi niệm không quên “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”. Hai câu này là căn bản. Sau đó, từ chỗ này phát dương quang đại, hiếu thuận tất cả chúng sanh, phụng sự tất cả chúng sanh. “Kinh Phạm Võng” là giới Kinh. Trong Kinh đã nói: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta”. Đây là đem tâm báo ân phát huy đến cực điểm.

Chúng ta ngày nay tiếp xúc với rất nhiều tôn giáo khác nhau, tiếp xúc với rất nhiều chủng tộc khác nhau, dùng lòng thương yêu chân thành vô điều kiện, vô tư bố thí cúng dường. Có rất nhiều người cảm thấy rất kỳ lạ, họ đến hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Vì sao Ngài phải làm như vậy?”. Tôi nói: “Đây là chúng ta thực hiện lời dạy bảo của Phật trong “Kinh Hoa Nghiêm”. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, biết được hư không pháp giới tất cả chúng sanh chính là pháp thân thanh tịnh của chính mình, vậy thì làm sao có thể không ái hộ, làm sao có thể không chiếu cố, làm sao có thể không cúng dường?”. Nếu mọi người đều hiểu rõ được đạo lý, đều biết cách làm như vậy thì thiên tai nhân họa sẽ không còn nữa. Đây chính là Phật pháp, thế gian có mấy người thật sự hiểu được?

Chúng ta đã học được những lời dạy bảo này, nhất định phải đem nó biến thành đời sống, biến thành tư tưởng, biến thành hành vi của chúng ta, thì chúng ta mới có thể đạt được thọ dụng chân thật. Cho nên, Cảm Ứng Thiên không thể không chăm chỉ nỗ lực tu học. Trong “Hội biên”, những cố sự nhân duyên công án thâu tập được rất là phong phú, chúng ta không thể giới thiệu từng việc, vì như vậy thời gian sẽ rất dài. Tôi ở chỗ này nhắc nhở các vị đồng tu phải chăm chỉ nỗ lực đọc tụng, thọ trì, tự cầu đa phước.
Trong “Dịch Kinh” cổ xưa của Trung Quốc nói rõ:
Tích thiện chi gia,
Tất hữu dư khánh;
Tích bất thiện chi gia,
Tất hữu dư ương.